— Gà! Chính món gà làm cháu xanh xao. Mà ôi trời, món gà lại quá
tuyệt. Cháu dám cá là cháu đã ngốn ít nhất ba suất rồi.
Bà đang cho hết đống bát đĩa vào bồn rửa. Lợi dụng lúc bà xếp chúng
vào máy rửa bát, tôi vội chuồn vào nhà tắm.
— Không thể trông xanh xao được. – Tôi lẩm bẩm, đóng cửa lại, chạy
vội đến trước gương. Xanh xao nghĩa là ốm. Chẳng hiểu sao lại thế nhỉ,
nhưng tôi không thể ốm ở đây được.
Tôi vỗ rồi véo cho hai má mình đỏ lên, kiễng chân nhìn mình trong
gương treo phía trên bồn rửa.
— Ô, tuyệt. – Tôi trông không còn xanh xao nữa. Giờ thì mặt tôi đỏ
bừng, thậm chí còn lốm đốm. Trông cũng chẳng khá hơn, cứ như tôi đang
mắc bệnh ban đỏ.
Tôi ra sức vã nước lên mặt nhưng cũng chẳng ăn thua.
— Cháu ở trong ấy có ổn không? – Giọng bà vang lên phía sau cánh
cửa.
— Ui, vâng, thưa bà. – Tôi đáp, cố rặn một nụ cười trước khi mở cửa.
— Bà thích thấy cháu trong phòng mình hơn. – Bà nói. – Chúng ta cần
phải ngủ thật nhiều nếu muốn chống lại căn bệnh cảm lạnh.
— Ngủ ạ. Đúng là điều cháu cần, – tôi gật đầu đồng tình. – Hôm nay
cháu phải dậy từ năm giờ sáng.
Bà dẫn tôi lên gác vào căn phòng thứ hai. Trông nó giống như nơi ẩn
náu của một tên trộm.
Hãy để cháu lại một mình trong phòng, tôi nhủ thầm.
Giữa phòng là một chiếc giường có in hình con thuyền buồm. Một
chiếc bàn nhỏ không khác gì hòm đồ nghề đi biển của viên thuyền trưởng.
Trên tường có treo tấm lưới đánh cá cùng một con cá đao nhồi rơm khổng
lồ.
— Một căn phòng lạnh lẽo. – Tôi nhận xét.