XỨ ĐÀNG TRONG - Trang 216

214

XỨ ĐÀNG TRONG

nổi tiếng là những “thợ săn say máu”. Điều này cho phép chúng

ta nghĩ là người Khatu đã tỏ ra khá hung dữ khiến người Việt

không muốn có quan hệ

1

.

Các dân cư của các nguyên này (hay nguồn) không luôn

luôn nhất thiết phải hiểu là người “Uplanders” theo tiếng Anh

hay“Montagnards” theo tiếng Pháp. Từ “nguyên” xuất hiện vào

thời Nguyễn Hoàng, có nghĩa là “nguồn gốc”

2

, hiểu theo nghĩa

là nơi bắt nguồn của các con sông. Trong nhiều trường hợp,

nguyên ám chỉ vùng núi, nơi các con sông bắt nguồn. Nhưng

trong một số trường hợp được nói đến trong Đại Nam nhất

thống chí, các dân tộc ít người không phải lúc nào cũng sống

tại miền núi. Có khi họ sống dọc theo sông hay trong các thung

lũng như Ngô Đức Thịnh ghi nhận tại Quảng Bình

3

. Đây là

những dân tộc lần đầu tiên có quan hệ với những người Việt

tới để tìm hiểu và ghi chép về họ.

Tuy nhiên, từ “nguyên” ám chỉ trước tiên các vùng thượng

lưu nói chung, trong khi, trong thực tế, “nguyên” có chức năng là

những trung gian giữa người Việt và người cao nguyên ở xa hơn

4

.

Các di dân người Việt, khi tới một vùng nào đó, luôn chiếm

giữ trước tiên những vùng đất dọc bờ sông. Do đó, làng mạc

thường theo hình con sông, dài và hẹp

5

. Bởi vậy, tại Đàng Trong,

ít ra là vào buổi đầu, người Việt rất có thể đã phải sống sát nách,

1 Viêtnam,

Mission on the Grand Plateaus, trg.245.

2 Từ tiếng Hán.
3 Ngô Đức Thinh, “Vài nét”, trg. 402.
4 Trong bối cảnh này, quả là lý thú khi ghi nhận được điều này là người Việt ở phía nam đã tạo ra tên

gọi “người Thượng” hay “người Thượng Du” vào thập niên 1960, và có thể được dịch là “người sống
ở thượng lưu”, mặc dù Thượng\Hạ không nhất thiết là thượng lưu\hạ lưu. Từ nay xem ra trực tiếp gắn
với tư tưởng được gói ghép trong từ “nguyên”.

5 Ngược lại, làng ở phía bắc tương đối vuông hoặc tròn, có rặng tre bao quanh và có cổng vào làng.

Cổng thường nhỏ. Như các học giả Việt Nam lưu ý, làng ở phía bắc thường là một cộng đồng gần như
khép kín trong khi ở phía nam, làng lại là một cộng đồng mở. Xem Ngô Đức Thinh, Vài nét về sự phân
bổ và tên gọi hành chính của các làng xã ở Quảng Bình”,
trg. 401-403; Nguyễn Công Bình, Lê Xuân
Diệm và Mạc Đường, Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu long, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
TP.HCM, 1990; và Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hóa, Hà Nội, 1984.

www.hocthuatphuongdong.vn

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.