VÙNG ĐẤT MỚI 21
nhiên là họ Nguyễn đã tìm được cách thiết lập và duy trì được
một quốc gia thống nhất trong nhiều thế kỷ trên cái “vùng đất
rời rạc nhất thế giới” ấy, như Gourou sau này nhận định
1
.
Vùng đất mới này có thể được chia thành ba vùng tự nhiên
khác nhau. Hai vùng đầu có những diện tích tương đối rộng
thích hợp với nông nghiệp. Vùng thứ nhất
2
, ngày nay là Quảng
Nam, là một đồng bằng phì nhiêu, khoảng 1.800 cây số vuông.
Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung
cấp. Vùng thứ hai tương ứng với đồng bằng Bình Định trù phú
ngày nay, có diện tích là 1.550 cây số vuông, có hai dãy núi khác
nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng đất này sử dụng nước
của hai con sông Đà Rằng và Lai Giang. Vùng thứ ba gồm ba
thung lũng
3
thông thương với nhau một cách dễ dàng, một vùng
khác biệt, các sách của Trung Hoa được viết trong thời kỳ từ
thế kỷ 8 đến thế kỷ 10 coi đây như là một quốc gia riêng biệt
4
.
Đèo Hải Vân nằm giữa Huế và Đà Nẵng tạo thành một lằn
ranh khí hậu: phía bắc đèo là vùng khí hậu pha trộn giữa nhiệt
đới và cận nhiệt đới, có một mùa đông rõ rệt kéo dài từ 3 đến 4
tháng. Khí hậu phía nam mang tính cách một khí hậu giữa hai
chí tuyến
5
. Dãy Trường Sơn ở phía bắc thường hẹp và gồ ghề,
nhưng ở phía nam thì lại có chiều nở rộng tạo thành một cao
nguyên, thường được gọi là Tây nguyên hay Cao nguyên Trung
phần, có diện tích khoảng 20.000 dặm vuông (100 dặm chiều
rộng và 200 dặm chiều dài). Vùng cao nguyên này thường được
dùng làm nơi trú ẩn. Một dân tộc bị một nhóm người có vũ
1 Gourou,
The Peasants of the Tongking Delta, Human Relations Area Files, New Haven, 1955, tập 1,
trg.3.
2 Minh thực lục gọi địa điểm này là A-mu-la-bu, trong khi đó Chư phiên chí lại gọi là Wu-ma-ba.
3 Ba thung lũng này là: Nha Trang, nước do sông Cái cung cấp; Phan Rang, nước do sông Dinh, chảy từ
cao nguyên Lâm Viên ra biển; Phan Rí và Phan Thiết, do sông Lũy và sông Cái.
4 Chư phiên chí gọi là Tân Đông Long (?), Lĩnh Ngoại Đại Đáp, quyền 2, gọi là Tân Đà Lĩnh (?), Tống sử,
quyển 489, gọi là Núi Tân Đà Long, Tân Đường Thư, quyển 43, gọi là Bản Đà Long (?).
5 Vietnam - Geographical Data, Hanoi, 1979, trg. 34.
www.hocthuatphuongdong.vn