Chính một trận chiến tranh tốt lành sẽ thánh hóa tất cả mọi sự”.
Hỡi Zarathustra, khi nghe đến những lời này, dòng máu của tổ tiên trỗi dậy
trong huyết quản chúng tôi: lời nói đó đã như lời lẽ của mùa Xuân thốt ra
với những thùng đựng rượu cũ.
Khi những lưỡi gươm giao chạm nhau giống những con rắn lốm đốm vết
đỏ thẫm, thì lúc bấy giờ, những đấng tiên vương của chúng ta mới bắt đầu
ham thích đời sống; đối với họ, mặt trời hòa bình thì lờ mờ và âm ấm, song
hòa bình lâu dài làm các ngài xấu hổ.
Các đấng tiên vương của chúng tôi thở dài não nuột u sầu khi họ nhìn thấy
những thanh gươm nhẵn bóng, không được dùng tới, treo trên tường!
Giống như những thanh gươm đó, các ngài khao khát chiến tranh. Bởi vì
mọi thanh gươm đều muốn uống máu người và lóe sáng khát vọng”.
Trong khi hai ông vua nói năng ba hoa như thế về lạc phúc của các đấng
tiên vương của họ, với lòng hăng say nồng nhiệt, thì Zarathustra lại ước
muốn chế nhạo sự nồng nhiệt của họ vô cùng: bởi vì trước mặt Zarathustra
là hai ông vua rất thanh thản, hai ông vua với vẻ mặt già nua thanh thoát.
Nhưng Zarathustra đã tự thắng mình. Hắn lên tiếng:
“Nào, lên đường đi thôi! Các ngươi đang ở đúng đường, trên kia là hang đá
của Zarathustra; và tối nay hẳn phải là một buổi tối dài dặc! Giờ đây, một
tiếng kêu thống khổ cấp bách đang kêu gọi ta rời xa các ngươi.
Hang đá của ta sẽ được vinh dự nếu có các ông vua dừng chân tại đó đợi
chờ; nhưng quả thật là các ngươi sẽ phải đợi chờ lâu lắm!
Mà nào quan hệ gì! Thời đại hôm nay, có nơi nào người ta học chờ đợi tốt
hơn là trong các chốn triều đình? Và trong tất cả những đức hạnh của các
ông vua, đức hạnh độc nhất còn lại cho họ hiện nay, há chẳng phải đức
hạnh được gọi bằng tên là “biết chờ đợi” hay sao?”
Zarathustra đã nói như thế.