Hội đồng quản trị, đến New York và xây dựng một công ty khác có tên
Công ty xuất khẩu Coca-Cola (Coca-Cola Export Corporation). Tôi không
thể tưởng tượng nổi hiện tại Coca-Cola sẽ như thế nào nếu ngày ấy ông
không làm những việc như vậy. Tất nhiên là nó sẽ không kinh doanh trên
địa bàn hơn 200 nước trên thế giới như bây giờ.
Công ty xuất khẩu Coca-Cola hoạt động khá độc lập cho đến năm 1973.
Trong suốt 43 năm hoạt động, các nhà quản lý hoạt động trong nước ít khi
phối hợp làm việc với các nhà quản lý hoạt động quốc tế. Woodruff chọn ra
một số nhân viên, mua vé máy bay cho họ đến một khu vực nào đó ở một
nước nào đó, cung cấp tiền cho họ cho đến khi họ xác định được địa điểm
và hình thức kinh doanh sản phẩm Coca-Cola ở đó. Liên lạc quốc tế thời đó
rất chậm và thất thường. Việc kinh doanh được thực hiện dựa trên cơ sở
lòng tin. Điều đó đặt ra một tiền lệ và tạo ra triết lý quản trị kinh doanh
quốc tế cho những năm sau.
Tôi còn nhớ năm 1964 tôi sang Nhật cùng với một người được Woodruff
chọn đi tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Ông này hoàn toàn có thể lấy được
những bản ghi nhớ cũng như những chỉ dẫn về cơ hội kinh doanh này từ
những nhân viên ở trụ sở chính, xem lướt qua và sau đó vứt vào sọt rác.
Nhưng ông tự mình đi vì biết rằng có niềm tin và sự ủng hộ từ đội ngũ quản
trị cấp cao nhất của công ty và với ông điều đó mới là quan trọng.
Trong suốt những năm 1930, Woodruff có một hành động liều lĩnh khác
mà có lẽ còn quan trọng hơn cả hành động mở rộng thị trường xuất khẩu
được nói đến ở trên.
Khi Đại suy thoái diễn ra ở mức độ tồi tệ nhất những năm 1930, việc
kinh doanh thất bại, thị trường chứng khoán suy giảm, một phần tư những
người Mỹ khỏe
mạnh bị thất nghiệp. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng triển vọng về
sự thịnh vượng trở lại của nền kinh tế là hết sức mơ hồ, tối tăm. Tuy nhiên,
đi ngược lại với tình hình ảm đạm đó, Woodruff lại tăng ngân sách quảng
cáo của công ty lên đến 4,3 triệu đô la, một con số làm mọi người sửng sốt
ở thời điểm đó.