đã cùng nhau lênh đênh vượt biển, phiêu bạt đến cảng New York ở bên kia
bờ Đại Tây Dương. Mahan từ nhỏ đã được người cha chuyên tâm rèn giũa,
học rộng đọc nhiều, ông đọc các tác phẩm nổi tiếng lịch sử quân sự. Về mặt
tư tưởng, ông chịu ảnh hưởng của thống soái hải quân Athens Hi Lạp cổ đại
là Themistoless và chính trị gia Pericles.
Năm 1856, ông thi vào trường hải quân Amapolis. Năm 1859, ông tốt
nghiệp và phục vụ trong hải quân Mỹ. Ông lần lượt phục vụ tàu hộ vệ, tàu
khu trục, chiến hạm pháo và tàu tuần tiễu hải dương. Đồng thời, ông cũng
tham gia vào cuộc nội chiến ở Mỹ.
Từ năm 1886 đến năm 1888 và từ năm 1892 đến năm 1893, ông giữ chức
vụ giám đốc Học viện hải quân. Từ năm 1893 đến năm 1895, ông giữ chức
trưởng tàu tuần tiễu hải dương "Chicago" thuộc tàu chỉ huy của hạm đội Mỹ
tại Châu Âu.
Năm 1896, ông thôi giữ các chức vụ với quân hàm thượng tá hải quân.
Năm 1898, trong chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha, ông nhậm chức ủy viên
hội đồng chiến lược hải quân Mỹ.
Năm 1906, ông được tấn phong quân hàm thiếu tướng hải quân.
Từ năm 1885, ông bắt đầu đi vào nghiên cứu và biên soạn các tác phẩm
về lý luận quân sự, luận văn đã xuất bản trên 100 cuốn, bài, trong đó tác
phẩm về thuyết quyền khống chế trên biển chiếm trên 20 cuốn.
Các tác phẩm chủ yếu là "Thuyết quyền khống chế trên biển" gồm: "Ảnh
hưởng của quyền khống chế biển đối với lịch sử, 1660 - 1783", "Ảnh hưởng
của quyền khống chế biển đối với cách mạng Pháp và đế quốc, 1793 -
1812"; "Quan hệ giữa ảnh hưởng của quyền khống chế biển và chiến tranh
năm 1812" và "Chiến lược hải quân".
Trong "Thuyết quyền khống chế biển", lần đầu tiên ông đưa ra lý luận
quyền khống chế biển là lấy tranh đoạt quyền chế ngự biển, khống chế hải
dương và tiêu diệt hạm đội địch làm nhiệm vụ hàng đầu.