con nên đối xử với Công Cẩn như anh trai mình". Chính nhờ sự phò tá của
Chu Du mà âm mưu của Tào Tháo đã bị thất bại.
Năm Kiến An thứ 13 (208) Tôn Quyền lâm vào tình trạng vô cùng khẩn
cấp, Tào Tháo dẫn 20 vạn thủy quân và lục quân tiến sát đến biên giới, đang
chuẩn bị tiến đánh Đông Ngô. Dưới sức ép về quân sự do quân Tào gây
nên, nội bộ Đông Ngô đã bị chia rẽ và hình thành hai phái: Phái chủ chiến
và phái chủ hòa. Sau khi biết tin này, Chu Du đã tức tốc quay lại để phản
đối phái chủ hòa. Ông đã tiến hành phân tích tình hình của ta và địch, ông
nói: "Tào Tháo tuy đông quân nhưng do chiến trận liên miên nên quân sĩ
đều mệt mỏi, lại lấy điểm yếu của mình ra địch với điểm mạnh của đối
phương, hơn nữa khí hậu lại không hợp, tất sẽ sinh bệnh, trong khi đó quân
tướng dưới trướng Tào Tháo vẫn còn nghi ngại, từ đó có thể thấy quân Tào
tuy đông nhưng không đáng sợ”.
Sau cùng, ông đã xin Tôn Quyền cho ông được cầm quân kháng cự và
cam kết chỉ dùng 5 vạn tinh binh là có thể đánh tan quân Tào. Điều này đã
làm cho Tôn Quyền càng thêm quyết tâm liên minh với Lưu Bị để đánh
Tào. Tôn Quyền đã phong cho Chu Du làm đô đốc, Trình Phổ làm phó đô
đốc, Lỗ Túc làm hiệu úy quân tán, dẫn quân liên minh với Lưu Bị tại Xích
Bích để khai chiến với quân Tào.
Vào lúc này, bệnh dịch đang hoành hành trong quân Tào, nhuệ khí lại bị
giảm sút, nên ngay trận đầu xuất quân, quân Tào đã bị thua to, đành phải rút
quân về đóng tại bờ bắc sông Trường Giang. Quân Tôn - Lưu trấn thủ tại
Giang Nam, từ đó hình thành cục diện đối đầu hai bên bờ sông giữa liên
quân Tôn - Lưu và quân Tào. Thủy quân của Tào Tháo rất đông, các chiến
thuyền nối đuôi nhau dày đặc như nêm.
Sau khi phân tích tình hình, Chu Du nhận định địch mạnh ta yếu nên
không thể cầm cự lâu dài được. Vì vậy, ông đã phái Hoàng Cái dẫn mấy
chục chiến thuyền chở đầy cỏ khô tẩm dầu, nhân lúc trời tối giả vờ bơi đến
phía quân Tào xin hàng, thấy vậy quân Tào chạy xô ra xem mà không
phòng bị gì cả.