trương bỏ Sơn Tây, nhưng Lý Thế Dân kiên quyết phản đối, ông xin vua
cha cho phép dẫn quân đi thu phục Thái Nguyên.
Năm 619, Lý Thế Dân thân chinh dẫn đại quân vượt qua sông Hoàng Hà
đóng băng để nghênh chiến với thủ hạ của Lưu Vũ Chu là tướng Tống Kim
Cương. Lý Thế Dân vẫn lựa chọn đối sách phòng thủ vững chắc, chờ đợi
thời cơ phản công. Ông ra sức trưng tập quân lương, củng cố hậu phương,
xây dựng tường thành vững như thép, quyết không mạo muội nghênh chiến.
Đến lúc lương thảo của Tống Kim Cương đã hết và chuẩn bị rút lui, ông
liền phái một đội kị binh áp sát Tây Hà, còn bản thân thì dẫn quân ra sức
truy kích. Tống Kim Cương bị thảm bại, Lưu Vũ Chu thấy vậy bèn tháo
chạy sang Đột Quyết, Lý Thế Dân đã thu lại được Thái Nguyên.
Năm 621, cũng vẫn kế sách cũ, củng cố hậu phương, kiên định phòng thủ
không ra đánh để làm nhụt nhuệ khí quân địch, chỉ cần một trận, Lý Thế
Dân đã tiêu diệt hai nước Hạ và Trịnh, thu về dải đất rộng lớn Nam, Bắc
sông Hoàng Hà, đặt nền móng vững chắc cho đại nghiệp thống nhất của
vương triều nhà Đường.
Năm 626, anh trai là Lý Kiến Thành và tứ đệ là Lý Nguyên Cát cấu kết
với nhau hòng chiếm đoạt ngôi vị và muốn giết ông. Thấy được âm mưu
này, Lý Thế Dân đã hạ lệnh bắn chết anh trai và tứ đệ. Qua đó chiến thuật
đánh đòn phủ đầu của ông đã được thể hiện rất rõ nét. Lý Thế Dân tuổi trẻ
công thành danh toại, năm 26 tuổi đã lên ngôi hoàng đế.
Ông bắt đầu sự nghiệp quân sự của mình năm ông mới 16 tuổi, khi đó
ông đã dùng kế cắm nhiều cờ để lừa quân địch, điều đó cho thấy kiến thức
quân sự uyên thâm ngay từ thời niên thiếu của ông. Năm 18 tuổi, ông đã
đích thân dẫn quân đi đánh trận, trong nhiều năm xông pha trên chiến
trường, tài năng quân sự của ông đã được phát huy toàn diện. Về mặt chỉ
đạo chiến lược, ông là một nhà quân sự lựa chọn kế sách lùi một bước để
tiến ba bước, lấy thủ làm công. Tư tưởng chiến lược đánh đòn phủ đầu cũng
được ông vận dụng rất thành công.