người Tháp Tháp Nhi (Tactaro) trên sông Oát Lý Trát (nay là Ô Lặc Cát -
miền Đông nước Mông Cổ). Nước Kim liền phong cho Thiết Mộc Chân
làm Sát Ngột Lỗ (tương đương bộ trưởng) và phong vương cho Thoát Lý
Hãn, từ đó Thoát Lý Hãn xưng là Vương Hãn.
Sau này, Thiết Mộc Chân liên minh với Vương Hãn xuất quân tiến đánh
bộ lạc Nãi Man, trên đường quay trở về thì chạm trán với bộ lạc Nãi Man.
Vương Hãn trông thấy quân địch hùng mạnh, khí thế bừng bừng thì có phần
hoảng sợ nên đã lặng lẽ cho quân lùi ra phía sau để cho quân của Thiết Mộc
Chân đối đầu với kẻ địch. Sau khi biết tin, Thiết Mộc Chân đã nhanh chóng
rút quân về bản doanh của mình là Lý Xuyên (nay là phía Tây thượng lưu
sông Khắc Lỗ Luân của Mông Cổ).
Sau khi Thiết Mộc Chân rút quân về bản doanh thì đối đầu với quân địch
chính lại là Vương Hãn. Quân của Vương Hãn ngay lập tức bị quân Nãi
Man đánh bại, đang trong lúc nguy khốn thì Thiết Mộc Chân phái tứ kiệt là
Bắc Nhĩ Thuật, Mộc Hoa Lê, Bắc Nhĩ Hốt và Xích Lão Ôn dẫn quân đến
cứu viện, đánh bại quân Nãi Man. Trong sự xung đột, tranh giành giữa các
bộ lạc, Thiết Mộc Chân đã khôn khéo sử dụng những mâu thuẫn để liên kết,
chia rẽ, phân hóa kẻ địch, dần dần ông đã thoát khỏi sự lệ thuộc.
Từ năm 1201 đến 1204, Thiết Mộc Chân lần lượt tiêu diệt bản doanh của
4 bộ lạc Tháp Tháp Nhi, Hãn Vương, Uông Cổ Bộ và Thái Dương Hãn của
Nãi Man. Từ đó, Thành Cát Tư Hãn trở thành người thống trị lớn nhất trên
toàn cao nguyên Mông Cổ.
Năm 1206, Thiết Mộc Chân đã cho mở đại hội Hốt Lý Đàn bên sông Oát
Nan Hà (nay là sông Ngạc Nộn - Mông Cổ), ông trở thành Đại Hãn nước
Mông Cổ, được gọi là Thành Cát Tư Hãn. Các bộ lạc lân cận như Cát Lợi,
Cát Tư, Uý Ngột Nhi, Cáp Thích Lỗ lần lượt quy thuận Thành Cát Tư Hãn
vào các năm 1207, 1209 và 1211.
Giới quý tộc Mông Cổ mới nổi bừng bừng khí thế, phát triển nhanh như
vũ bão, luôn có tham vọng chiếm hữu toàn bộ của cải, vì vậy Thành Cát Tư
Hãn đã ba lần cất quân tiến đánh Tây Hạ (vào các năm 1205, 1207 và