có tư tưởng chống phát xít, còn cha thì mang tư tưởng "cực đoan”. Nhưng
những điều này chẳng có ý nghĩa gì vì ông đã được thử thách. Hơn nữa, tư
tưởng chống phát xít vào năm 1940 không bị khép tội.
Philby tích cực đối phó với tình báo Đức ở bán đảo Pirene. Ông lấy
được những tin tức cần thiết cho tình báo Xô Viết, trong đó phải kể đến
những bức điện đã giải mã của Đức. Ông có được thông tin đầu tiên về nỗ
lực xây dựng quan hệ giữa tình báo Anh và Canaris. Sau đó, vào năm 1941
ông biết được những cuộc đàm phán riêng giữa Anh-Mỹ và Đức.
Nhờ lòng tận tụy, cần cù và đầu óc phân tích nên Philby đã tiến xa. Vả
lại, ông được mọi người quý mến. Trong số các cộng sự và bạn bè, Philby
duy trì tình bằng hữu với Ian Fleming và Graham Greene tới cuối đời.
Ở cương vị mới, Philby có cơ hội lấy được những thông tin giá trị cho
tình báo Xô Viết. Để có được chúng ông không chỉ lợi dụng chức vụ của
mình, mà còn giao lưu rộng rãi với các đồng nghiệp ở SIS, sử dụng mối
quan hệ với nhân viên của MI-5, Bộ Ngoại giao và tình báo Mỹ. Đôi khi đó
là những tin tức thật bất ngờ, chẳng hạn là bức điện đã giải mã của đại sứ
quán Đức ở Tokyo gửi Ribbentrop về việc mười ngày nữa Nhật sẽ tấn công
Singapore. Các thông tin thường nhận được là về vấn đề hoạt động của tình
báo Anh, cơ cấu, thành phần, về các điệp viên, nhất là điệp viên phòng
phản gián 5.
Tháng 8 năm 1943, Philby được thăng cấp. Ông được bổ nhiệm phụ
trách vài phòng bao gồm phòng phụ trách bán đảo Pirene, phòng đối phó
với tình báo Đức trên lãnh thổ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc và duy trì liên lạc
với phòng phản gián của chính phủ Ba Lan lưu vong tại London. Ngoài ra
ông còn chịu trách nhiệm bảo đảm hoạt động phản gián cho tất cả chiến
dịch quân sự của các nước đồng minh do Eisenhower tiến hành và duy trì
liên lạc giữa phòng phản gián của SIS và Bộ Ngoại giao Anh.