Structure of Scientific Revolutions (Chicago: University of Chicago Press,
1962). Kuhn ghi chép đầy đủ nỗ lực của những người ủng hộ các giả thuyết
đối đầu khác ở giai đoạn này trước khi tiến tới một mô hình. Thêm vào đó,
một trong những cuốn sách có ảnh hưởng lớn nhất về nghiên cứu quản trị và
khoa học xã hội đã được Barney G. Glaser và Anselm L. Strauss viết nên
(The Discovery of Grounded Theory: Strategies of Qualitative Research
[London: Wiedenfeld and Nicholson, 1967]). Dù họ đặt tên cho khái niệm
mấu chốt của mình là “giả thuyết vững chắc” nhưng cuốn sách thực ra được
viết về phân loại, vì quá trình này là trọng tâm để xây dựng giả thuyết đúng
đắn. Thuật ngữ “giả thuyết độc lập” của họ cũng giống như thuật ngữ “nhóm
loại dựa vào thuộc tính” của chúng tôi. Họ mô tả cách một nhóm các nhà
nghiên cứu cuối cùng đã thành công trong việc biến hiểu biết của mình thành
“giả thuyết chính thức” mà chúng tôi gọi là “nhóm loại dựa vào tình huống”.
22. Clayton M. Christensen, The Innovator’s Dilemma: When New
Technologies Cause Great Firms to Fail (Boston: Harvard Business School
Press, 1997).
23. Các nhà quản lý cần biết liệu một giả thuyết có áp dụng được cho trường
hợp của họ hay không, liệu họ có nên tin nó không. Một cuốn sách rất hữu
ích về vấn đề này là Case Study Research: Design and Methods (Beverly
Hills, CA: Sage Publications, 1984) của Robert K. Yin. Từ khái niệm của
Yin, chúng tôi kết luận rằng tính ứng dụng của một giả thuyết (mà Yin gọi là
giá trị ngoài) được thiết lập bởi kế hoạch phân loại hợp lý của nó. Không còn
cách nào khác để đánh giá xem giả thuyết áp dụng hay không áp dụng được
ở đâu. Để lý giải, hãy xem xét mô hình cải cách đột phá được sinh ra từ
nghiên cứu về ngành sản xuất ổ đĩa trong các chương đầu tiên của cuốn The
Innovator’s Dilemma. Tất nhiên, mối bận tâm mà các độc giả của nghiên cứu
này nêu ra là liệu giả thuyết đó có áp dụng được cho các ngành khác hay
không. Cuốn The Innovator’s Dilemma đã cố gắng giải quyết các mối bận
tâm này bằng cách cho thấy chính giả thuyết giải thích vì sao ai thành công
hay thất bại trong ngành sản xuất ổ đĩa cũng giải thích được những gì xảy ra
trong ngành sản xuất máy xúc cơ học, thép, bán lẻ, xe máy, phần mềm kế
toán, điều khiển mô tô, máy tính và điều trị tiểu đường. Các ngành đa dạng
này được lựa chọn để củng cố tính ứng dụng của giả thuyết. Nhưng làm vậy
cũng không hết được các mối bận tâm. Độc giả tiếp tục hỏi liệu giả thuyết
này có áp dụng được cho hóa học, phần mềm cơ sở dữ liệu, v.v... hay không.
Áp dụng bất kỳ giả thuyết nào cho các ngành khác nhau không thể chứng
minh được tính ứng dụng của nó vì nó sẽ luôn khiến các nhà quản lý tự hỏi
liệu tình huống hiện tại còn điều gì khiến giả thuyết không tin cậy được. Một
số nhà nghiên cứu học thuật, với nỗ lực không vượt quá tính đúng đắn của
những gì họ có thể khẳng định và không khẳng định, đã tốn rất nhiều công
sức để xác định các “điều kiện ranh giới” trong đó khám phá của họ có thể
203