hơn so với những quả táo trong siêu thị cũ chỉ vì siêu thị mới nằm ở một nơi
xa xôi hẻo lánh và và do đó có thể có diện tích mặt sàn rộng hơn.
Có một số hoạt động dịch vụ, chẳng hạn như ngân hàng, có phạm vi tăng
năng suất lớn hơn so với các dịch vụ khác. Tuy nhiên, như đã được thể hiện
trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, phần lớn sự tăng trưởng năng
suất trong những hoạt động này không phải do sự gia tăng thực sự về năng
suất của họ (ví dụ, giảm chi phí giao dịch do máy tính tốt hơn) mà do những
đổi mới tài chính đã che khuất (chứ không phải là thực sự làm giảm) các rủi
ro của tài sản tài chính, theo đó khiến cho lĩnh vực tài chính phát triển một
cách nhanh chóng nhưng không bền vững (xem Vấn đề 22).
Tóm lại, tỷ trọng của ngành sản xuất trong tổng sản lượng quốc dân ở các
nước giàu giảm chủ yếu không phải là do giảm nhu cầu (tương đối) đối với
hàng hoá công nghiệp như nhiều người nghĩ. Nguyên nhân chủ yếu cũng
không phải là do sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp từ Trung Quốc và
các nước đang phát triển khác, mặc dù nó có tác động lớn đối với một số
lĩnh vực. Thay vào đó chính sự giảm giá tương đối của hàng hoá công
nghiệp do tăng trưởng năng suất nhanh hơn trong lĩnh vực sản xuất là động
lực chính của quá trình giảm công nghiệp hóa. Như vậy, trong khi các công
dân của những nước giàu có thể đang sống trong các xã hội hậu công
nghiệp xét về mặt việc làm của họ, tầm quan trọng của ngành sản xuất xét
về mặt sản xuất trong các nền kinh tế này đã không bị xóa bỏ đến mức
chúng ta có thể tuyên bố một thời kỳ hậu công nghiệp.
Chúng ta có nên lo lắng về xu hướng giảm công
nghiệp hóa?
Nhưng nếu xu hướng giảm công nghiệp hóa do sự năng động trong ngành
sản xuất của một quốc gia, thì đó không phải là một điều tốt ư? Không nhất
thiết. Trên thực tế, xu hướng giảm công nghiệp hóa chủ yếu do tính năng
động tương đối của khu vực sản xuất so với khu vực dịch vụ không cho
chúng ta biết bất cứ điều gì về việc nó đang hoạt động hiệu quả như thế nào