với thị trường tự do thì hãy dừng lại và suy ngẫm để nhận ra rằng suy cho
cùng thì mức lương của chúng ta do yếu tố chính trị quyết định. (xem Vấn
đề thứ 3)
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, tại nhiều nước giá các khoản
vay (nếu bạn có thể vay một khoản hoặc bạn đã có một khoản vay với tỉ lệ
lãi suất khả biến) đã trở nên thấp hơn rất nhiều nhờ vào việc liên tục giảm tỷ
lệ lãi suất. Liệu điều này có phải là do đột nhiên mọi người không muốn
vay và các ngân hàng cần phải hạ thấp giá để giải ngân không? Câu trả lời
là không. Đây chính là kết quả của các quyết định chính trị nhằm tăng nhu
cầu vay vốn bằng cách giảm tỷ lệ lãi suất. Thậm chí tại những thời điểm
bình thường ở hầu hết các nước, tỷ lệ lãi suất do ngân hàng trung ương đặt
ra. Điều này có nghĩa là chính trị đã can thiệp vào. Nói cách khác, tỷ lệ lãi
suất cũng do chính trị quy định.
Nếu mức lương và tỷ lệ lãi suất (phần lớn) là do chính trị quy định thì tất cả
các loại giá khác cũng do chính trị quy định vì chúng ảnh hưởng tới các loại
giá khác.
Thương mại có công bằng không?
Chúng ta chỉ nhận thấy một quy định khi chúng ta không tán thành các giá
trị đạo đức ẩn sau nó. Hạn định về mức thuế cao đối với thương mại tự do
thế kỷ XIX của chính phủ Liên bang Mỹ đã làm các chủ nô lệ tức giận vì họ
thấy việc buôn bán người trong thị trường tự do là không có gì sai trái. Với
những người tin rằng con người cũng có thể được sở hữu như hàng hóa thì
việc cấm buôn bán nô lệ cũng có thể bị phản đối giống như phản đối việc
hạn chế buôn bán hàng hóa. Những người bán hàng ở Hàn Quốc những năm
1980 có thể nghĩ rằng yêu cầu “trả lại hàng vô điều kiện” là một quy định
phiền toái và không công bằng của chính phủ, hạn chế tự do của thị trường.
Sự mâu thuẫn về giá trị này cũng nằm phía sau sự tranh cãi đương thời về
thương mại tự do và thương mại công bằng. Nhiều người Mỹ tin rằng Trung