ban đầu và dễ dàng chấp nhận những thay đổi công việc trong sự nghiệp sau
này của mình.
Các quốc gia có chính phủ mạnh hơn có thể phát
triển nhanh hơn
Bằng chứng là gì? Các thành quả kinh tế tương đối của các nước khác nhau
xét về quy mô phúc lợi của họ là gì? Như đã đề cập, quan niệm phổ biến là
các quốc gia có phúc lợi xã hội nhỏ hơn thì năng động hơn. Tuy nhiên, các
bằng chứng thực tế không ủng hộ quan điểm này.
Cho đến những năm 1980, Mỹ đã tăng trưởng chậm hơn rất nhiều so với
Châu Âu mặc dù thực tế là nước này có một hệ thống phúc lợi xã hội nhỏ
hơn nhiều. Ví dụ, vào năm 1980, tỷ lệ chi tiêu công trong Tổng sản phẩm
Quốc nội (GDP) chỉ là 13,3% ở Mỹ, so với 19,9% của mười lăm nước
thuộc Liên minh Châu Âu (EU). Tỷ lệ này là 28,6% ở Thụy Điển, 24,1% ở
Hà Lan và 23% ở (Tây) Đức. Mặc dù vậy, từ năm 1950 đến năm 1987, Mỹ
tăng trưởng chậm hơn so với tất cả các quốc gia Châu Âu. Thu nhập bình
quân đầu người trong thời gian này tăng 3,8% ở Đức, 2,7% ở Thụy Điển,
2,5% ở Hà Lan và 1,9% ở Mỹ. Rõ ràng, quy mô phúc lợi xã hội chỉ là một
yếu tố quyết định hiệu quả kinh tế của một quốc gia, nhưng điều này cho
thấy rằng một cơ chế phúc lợi lớn không phải là không tương ứng với tốc
độ tăng trưởng cao.
Thậm chí kể từ năm 1990, khi hiệu suất tăng trưởng tương đối của Mỹ đã
được cải thiện, một số quốc gia với chế độ phúc lợi lớn vẫn phát triển nhanh
hơn. Ví dụ, từ năm 1990 đến năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở
Mỹ tăng 1,8%. Điều này về cơ bản là giống như trong giai đoạn trước,
nhưng do suy thoái của các nền kinh tế Châu Âu, Mỹ đã trở thành một trong
những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong nhóm các nền kinh tế “nòng
cốt” của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (có nghĩa là không
bao gồm các nước chưa hoàn toàn giàu có, chẳng hạn như Hàn Quốc và
Thổ Nhĩ Kỳ).