dại, cách xa các làng và nông trại xung quanh. Viên đại úy hải quân tậu một
khu đất lớn, xây một tòa nhà đồ sộ, đầy đủ tiện nghi, và gọi nó một cách to
tát là "lâu đài”. Ông lắp cả một máy phát điện để lắp đèn và chạy máy bơm
nước. Rồi nhằm mục đích kinh doanh, ông xây thêm bên cạnh con đường
dẫn đến cổng sắt của lâu đài sáu ngôi nhà nhỏ, mà ông gọi là biệt thự.
Ngôi biệt thự gần lâu đài nhất ông nhường cho người bạn chiến đấu
cũ, thiếu tá Burnaby. Dần dần năm ngôi biệt thự kia cũng bán được, bởi bao
giờ cũng có những người, vì lý do này khác, muốn tìm nơi hẻo lánh để
sống.
Làng nhỏ Sittaford có một phố lèo tèo, gồm ba ngôi nhà rách nát, một
lò rèn, một hiệu bánh kẹo kiêm trạm bưu điện xã. Từ đây ra thị trấn
Exhampton phải đi theo một con đường núi dài mười cây số, nhiều đoạn rất
dốc khiến người ta phải dựng biển ghi chú bên đường: "Xe gắn máy cẩn
thận! Đường dốc nguy hiểm”.
Như chúng ta đã thấy, đại úy về hưu Trevelyan như thế là khá giàu.
Tuy vậy ông ta vẫn không bỏ được thói say mê cố hữu, là kiếm tiền. Hồi
cuối tháng Mười vừa rồi, một hãng môi giới nhà đất ngoài thị trấn
Exhampton gửi thư đến hỏi xem ông đại úy có bằng lòng cho thuê tòa "lâu
đài' của ông không? Một bà khách hàng của hãng muốn nghỉ mùa đông
năm nay ở đó.
Phản ứng đầu tiên của đại úy Trevelyan là từ chối thẳng thừng. Nhưng
rồi suy nghĩ lại, ông viết thư trả lời hãng môi giới nhà đất kia, yêu cầu cho
biết thêm chi tiết. Hãng trả lời rằng người muốn thuê tòa nhà của ông là
một phụ nữ góa chồng, tên là phu nhân Willett. Bà cùng cô con gái mới từ
châu Phi về, muốn nghỉ mùa đông năm nay tại vùng Dartmoor.
- Đúng là điên! - đại úy Trevelyan kêu lên với ông bạn thiếu tá - Ông
đồng ý với tôi không, Burnaby?