sát dân Do Thái, đưa các nhóm người Nga ở 200 thị trấn và thành
phố tấn công người Do Thái, phá hủy tài sản của họ. Sau sự kiện
này, pogrom trở thành chuyện thường xuyên. Tuy nhiên, việc đổ mọi
tội lỗi cho những người bị coi là “những kẻ giết Chúa” vẫn không đủ
để ngăn chặn cuộc cách mạng năm 1917 và dưới thời Lê-nin, người Do
Thái được hưởng một giai đoạn lạc quan ngắn ngủi. Lê-nin phản đối
các pogrom và chính thức bãi bỏ Biên giới, nơi có nhiều người Do
Thái phải sống trong bần cùng hèn mọn. Nhưng Lê-nin tiếp tục
phản bác bất cứ đề xuất nào về một “văn hóa dân tộc” Do Thái,
coi đó là “kẻ thù của giai cấp vô sản, những kẻ ủng hộ cái cũ và địa vị
của người Do Thái trước đây, kẻ đồng lõa của Giáo trưởng và giai
cấp tư sản.” Mặc dù nhiều người gốc Do Thái là thành phần xuất
sắc trong số các Bolshevik nhưng họ có khuynh hướng theo tư
tưởng thế tục và khi Yevsektsiya, bộ phận Do Thái của Đảng Cộng
sản, được thành lập năm 1919, các đảng phái theo chủ nghĩa phục
quốc Do Thái bị tan rã và tiếng Hebrew (tiếng Hê-Brơ hay tiếng
Do Thái) bị cấm sử dụng do có sự liên hệ với tôn giáo và chủ nghĩa
phục quốc Do Thái.
Trong vài thập kỷ sau đó, người Do Thái hòa nhập vào xã hội Nga
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mặc dù tuyên bố chống chủ nghĩa phục
quốc Do Thái nhưng Liên Xô đã trở thành quốc gia đầu tiên công
nhận nhà nước Israel năm 1947 (khi Andrei Gromyko, Đại diện của
Liên Xô ở Liên Hợp Quốc, tuyên bố ủng hộ thì Đại diện nước Anh
lại bỏ phiếu trắng). Nhưng chủ nghĩa tự do đó không kéo dài. Khi
Israel bắt đầu thân thiết hơn với phương Tây và Liên Xô tìm cách
tăng cường ảnh hưởng trong thế giới Arab thì tư tưởng bài Do Thái
của Stalin ngày càng tăng. Sau khi hành quyết Zinoviev, một lãnh
đạo cộng sản xuất sắc người Do Thái như là một phần trong các
hoạt động thanh trừng của Stalin, nhân viên đặc vụ Cơ quan An ninh
Nhà nước Liên Xô (NKVD) đảm nhiệm việc này đã mô phỏng những
giây phút cuối cùng của nạn nhân cho sếp của mình. Người ta nói