không thích nghe khi tôi khăng khăng rằng hắn đã cáo buộc tôi
một cách vô lý. Hắn muốn được nhìn nhận mỗi khi mang cho tôi
một món gì đó, muốn được ngợi khen công sức hắn đã bỏ ra vì tôi -
chẳng hạn, khi vận cái lò sưởi nặng xuống căn hầm. Thậm chí hắn
bắt đầu buộc tôi phải biết ơn hắn. Và lúc ấy tôi đã cố hết mức
để khước từ việc đó, cãi rằng “Tôi ở đây là tại vì ông nhốt tôi”.
Trong thâm tâm, tôi cũng chẳng làm được gì ngoài hoan hỉ khi hắn
mang cho tôi thức ăn và những món đồ mà tôi hết sức cần đến.
Ngày nay, nhìn lại lúc ấy, tôi cảm thấy thật lạ lùng khi nỗi sợ hãi,
nỗi kinh hoàng lởn vởn quanh mình lại không xuất phát từ bản thân
hắn. Có lẽ phản ứng đó của tôi xuất phát từ diện mạo kém ấn
tượng và nỗi bất an của hắn, hoặc do hắn muốn khiến tôi cảm
thấy an toàn trong tình cảnh ngoài sức chịu đựng này nên đã tự
biến mình trở thành một kẻ thân cận không thể thiếu vắng.
Những gì khiến tôi cảm thấy bị đe dọa trong tình cảnh bấy giờ
chính là căn hầm ở dưới lòng đất, những bức tường khép kín và
cánh cửa khóa chặt, và những kẻ vẫn mang danh là đã ra lệnh bắt
cóc tôi. Chính hắn đôi khi đã tạo ra ấn tượng rằng tội ác của hắn
chỉ là một tình thế hắn sa vào, và không phù hợp với tính cách của
hắn. Trong trí tưởng tượng trẻ thơ của tôi, một lúc nào đó trong quá
khứ hắn đã quyết định trở thành một kẻ tội phạm và nhúng tay vào
một việc xấu xa. Tôi không mảy may dao động rằng hành vi của
hắn là phạm pháp và phải bị trừng phạt. Nhưng tôi đã tách biệt tội ác
ấy ra khỏi con người đã phạm tội. Kẻ ác đó chắc chắn chỉ là một
vai trò mà hắn đang thủ diễn.
“Từ giờ phải tự nấu lấy mà ăn.”
Một buổi sáng trong tuần đầu tiên, hắn mang vào hầm một
thùng bằng ván ép sậm màu. Hắn kê sát vào tường, đặt bếp hâm