vậy. Mà còn tệ hơn nữa. Tôi từng tưởng tượng một buổi sáng đẹp trời nào
đó thấy hắn nằm trong giường - chết ngạt.
Sau đó hắn nghĩ ra cách cho không khí lọt vào vừa đủ thở. Bằng một sợi
dây với cả một loạt móc dài móc ngắn đặt cách quãng vào phần trên cánh
cửa lò-xo hắn có thể cho không khí vào nhiều ít tùy ý. Không còn phải mở
cửa sổ hay rút bỏ bao tải chèn dưới cửa hay nạy nhựa trám các khe vách
nữa. Còn mấy cái đèn chết tiệt, thì hắn quyết định không dùng mà dùng nến
đốt thay. Ánh nến leo lét làm căn phòng chật hẹp trông chẳng khác gì nấm
mồ và như thế hợp với tâm trạng bệnh hoạn của hắn.
Đồng thời cái ngứa vẫn không ngớt hành hắn. Mỗi lần xuống ăn cơm, hắn
lại vén ống tay ống quần lên trình bày cái tai hại của bệnh ngứa. Giờ thì hắn
lở loét khắp. Phải tôi là hắn, chắc tôi sẽ bắn tôi nát óc rồi.
Thật vậy, phải làm sao chứ để thế chúng tôi đến điên mất. Chúng tôi đã thử
mọi thứ thuốc cổ truyền - nhưng vô hiệu. Cùng quá tôi mới nhờ một anh
bạn ở cách đấy vài trăm cây số đến xem giùm. Anh ta là một lương y giỏi,
lại cả giải phẫu nữa. Anh cũng nói được tiếng Pháp. Thật ra anh ta là người
bất thường, lại rộng rãi, thành thật. Tôi biết nếu chữa được anh ta không
ngại gì mà không giúp tôi tận lực.
Anh đến. Anh khám Moricand từ đầu đến chân, khám trong khám ngoài.
Xong rồi anh hỏi chuyện hắn. Anh không nói gì đến lở loét, cũng chẳng
động gì đến vấn đề. Anh nói đủ chuyện nhưng không nói gì đến ngứa. Hầu
như thể anh quên hẳn anh đến vì việc gì. Thỉnh thoảng Moricand toan nhắc
khéo anh, nhưng mỗi lần anh lại khéo léo hướng câu chuyện sang vấn đề
khác. Sau cùng anh viết toa đặt ngay dưới mắt Moricand rồi sửa soạn ra về.
Tôi đưa anh ra xe, nóng ruột muốn biết thực sự anh nghĩ sao.
Anh nói, “Có gì đâu. Hễ cứ đừng nghĩ đến ngứa thì không còn ngứa”.
“Nhưng khi mà...?”
“Thì bảo hắn uống thuốc”.
“Liệu thuốc có công hiệu không?”
“Cái đó do ở hắn. Thuốc không công phạt mà cũng chẳng công hiệu trừ phi
hắn tin”.
Một giây phút im lặng nặng nề.