Dartmouth. Đó là một khoản tiền rất lớn so với nguồn tài chính của gia
đình tôi, do vậy tôi lên đường đến Dartmouth vào tháng 9 năm 1959.
Bốn năm sau, tôi tốt nghiệp với tấm bằng chuyên ngành khoa học kỹ
thuật rồi tôi học thêm hai năm nữa tại Trường Kinh doanh Harvard. (Khi
đó, việc sinh viên năm cuối một trường đại học học thẳng lên các trường
kinh doanh là điều mà đa số các trường kinh doanh không chấp nhận.)
Sau đó, ở độ tuổi 23, tôi rời trường Harvard và bắt đầu hoạt động kinh
doanh.
Tôi gia nhập hãng tư vấn quản lý của McKinsey tại New York vào tháng
6 năm 1965. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là nghiên cứu chế độ đền bù cho các
nhà lãnh đạo của công ty Socony Mobil Oil Co. Tôi sẽ không bao giờ quên
ngày làm việc đầu tiên trong dự án đó. Tôi hoàn toàn không biết gì về chế
độ đãi ngộ cho các vị lãnh đạo cũng như ngành dầu khí. May mắn là tôi chỉ
đóng vai trò thứ yếu trong dự án, nhưng trong thế giới của McKinsey,
người ta luôn được kỳ vọng sẽ tạo nên những bước đột phá. Trong vài ngày
tôi đã có một cuộc họp với các vị lãnh đạo cấp cao hơn tôi hàng chục tuổi.
Chín năm sau, tôi trở thành cổ đông lớn của McKinsey. Tôi chịu trách
nhiệm về mặt tài chính của hãng và cũng là thành viên của ủy ban lãnh đạo
cấp cao. Tôi phụ trách ba khách hàng chính, hai trong số đó là các công ty
cung cấp dịch vụ tài chính.
Điều quan trọng nhất tôi học được từ McKinsey là phải hiểu rõ các hoạt
động nền móng của một công ty. McKinsey luôn đề cao và quan tâm đến
các bản phân tích sâu sắc thị trường của một công ty, vị thế cạnh tranh và
định hướng chiến lược của nó.
Khi gần 30 tuổi, tôi nhận thấy rõ ràng rằng mình không thể duy trì nghề
tư vấn suốt cả cuộc đời. Mặc dù thích sự thách thức mang tính trí tuệ, tốc