ngọn đèn lồng lập lòe rọi đường. Chính Ngài Acharn lúc nào cũng nêu
gương sáng trên phương diện thực hành này.
Đêm nào cũng vậy, Ngài Acharn đọc kinh trong nhiều giờ. Trong những
bài mà Ngài thường đọc tụng có những bài dài như kinh
Dhammacakkappavattana Sutta và bài Mahāsamaya Sutta. Đôi khi Ngài
cũng dịch những bài kinh ấy cho chư vị đệ tử nghe, nhưng chú trọng nhiều
về phương diện thực hành hơn là ý nghĩa theo từng từ. Như vậy làm cho bài
kinh dễ lãnh hội hơn và tạo nhiều hình ảnh sống động in sâu vào tâm người
nghe. Nhiều người không thể không ngạc nhiên với khả năng và năng lực
dịch thuật của Ngài vì biết rằng Ngài không học nhiều ở trường. Ngài có thể
dịch những đoạn kinh Pāli tốt hơn những vị học giả đã từng theo học cấp
cao nhất. Ngài có thể dịch ngay lập tức bất kỳ đoạn kinh nào dẫn giải từ
Kinh Điển để làm rõ lời dạy của mình. Ngoài tốc độ dịch nhanh chóng,
giọng nói cho thấy sự bạo dạn và lòng tự tin không lay chuyển vì chính
mình đã trực kiến ý nghĩa của từng từ. Thí dụ như đoạn vāta rukkhā na
pabbato được dịch một cách sống động là “gió có thể thổi ngã cội cây, làm
gãy ra những mảnh nhỏ, nhưng gió đó không thể làm rung động hòn núi đá.”
Có thể là cả đoạn kinh và lời dịch hiện lên từ bên trong cùng một lúc nhờ trí
tuệ xuyên thấu chứ không phải chỉ là sản phẩm của trí nhớ dồn đầy kiến
thức sách vở từ bên ngoài.
Dạy những gì đã chứng nghiệm chứ không phải
phỏng đoán
Lưu ngụ tại làng Namone một thời gian, Ngài Acharn rời tới làng Bahn
Koke, cách xa khoảng hai cây số. Nơi đây cách xóm làng gần nhất khoảng
một cây số. Tại hai nơi chỉ có một số nhỏ đệ tử cùng ở với Ngài, khoảng
mười, mười một người. Đây là số lượng vừa đủ cho hai nơi này.
Chính ở tại làng Bahn Koke mà người viết được chấp nhận vào sống dưới
sự hướng dẫn và rèn luyện của Ngài. Như vậy, những gì xảy diễn từ thời
điểm này trở đi và được tường thuật sau đây là chính người viết đã chứng
kiến. Tất cả những diễn biến trước lúc đó người viết phải góp nhặt từ những