hè, những chiếc lá đã xanh mướt xoè ra êm ả như những bàn tay mềm mại
lật trở theo từng luồng không khí. Một đôi chim giẻ không biết từ đâu đến,
lượn vòng trong gió như hai mảnh vải hay giấy sặc sỡ rồi đậu xuống những
cây dâu, nơi chúng chuyền qua chuyền lại và đâu khẩu bằng giọng khàn
khàn rồi đứng yên, kêu rít lên, gió xé tiếng kêu khàn khàn của chúng thành
từng mảnh như vải hay giấy. Rồi có ba con nữa nhập đàn, chúng cùng nhau
bay nhảy và cãi cọ trong đám lá cành xoắn xuýt , cùng kêu rít chói tai. Cửa
lều mở và Dilsey chui ra lần nữa. Lần này bà đội một cái mũ nỉ của đàn ông
và mặc một chiếc áo lính, bên dưới là cái váy vải bông kẻ xanh lồng
phồng, lụng thụng quanh bà khi bà đi qua sân và leo lên những bậc thềm tới
cửa bếp.
Một lúc sau bà trở ra, tay cầm chiếc dù đã mở nghiêng nghiêng chắn gió, bà
đi tới cạnh đống củi và đặt chiếc dù vẫn mở xuống. Rồi ngay lập tức bà
chụp lấy dù, đứng yên một lát, nhìn xung quanh. Rồi bà khép dù đặt xuống
và xếp củi lên tay, ghì vào ngực và lại nhặt dù lên, cuối cùng bà cũng mở
được nó và trở lại bậc thềm, bà vừa giữ ôm củi chênh vênh vừa cố khép dù
và để vào góc nhà cạnh cửa. Bà vứt củi vào cái thùng sau lò. Rồi bà bỏ áo
khoác và mũ ra, lấy chiếc tạp dề bẩn trên tường xuống mặc vào và nhóm lò.
Trong lúc bà làm việc đó, vỉ lò và nắp lò lách cách loảng xoảng thì bà
Compson gọi trên đầu cầu thang.
Bà mặc một áo xa tanh kép đen, giữ cổ áo sát lên tận cằm. Tay vương bà
cầm một bình nước nóng bằng cao su màu đỏ và bà đứng ở đầu cầu thang
sau, gọi "Dilsey", tiếng gọi cách quãng đều đặn và đơn điệu vọng vào lòng
cầu thang im ắng đi xuống bóng tối hoàn toàn và lại trổ ra ở một khung cửa
sổ xám. "Dilsey" bà gọi bằng giọng không âm điệu, không nhấn câu cũng
không vội vã, như thể bà không hề chờ tiếng trả lời. "Dilsey".
Dilsey đáp và ngưng lách cách nắp lò, nhưng bà chưa kịp ra khỏi bếp thì bà
Compson lại gọi, và trước khi bà đi qua hết phòng ăn rồi tựa đầu vào cánh
cửa sổ xám nghỉ lấy hơi, lại một tiếng gọi nữa.