đình, trong phường nữa. Cũng như ở châu Âu, giá cả không tuỳ theo luật cung
cầu, người bán nói thách mà kẻ nào ngớ ngẩn thì phải mua đắt, tuy nhiên ở triều
đình cũng có một viên chức xem xét các món hàng và định giá bán cho người
sản xuất.
Trên bộ, giao thông và chuyên chở dùng ngựa và xe bò hai bánh, nhưng cũng
như thời Trung cổ ở châu Âu, có cả ngàn nỗi trắc trở: tới biên giới của một tiểu
quốc, các thương đoàn phải trả thuế rất nặng, ấy là chưa kể phải đóng tiền mãi
lộ cho bọn lục lâm nữa! Trên thuỷ, sự chuyên chở phát triển hơn. Khoảng 860
trước công nguyên, các tàu buồm nhỏ thôi, dùng rất nhiều mái chèo chở các thổ
sản đặc biệt qua bán ở Mésopotamie, Ả Rập, Ai Cập: hương thơm, hương liệu,
tơ lụa, bông vải, khăn san, sa lượt, trân châu, hồng ngọc, mun, gỗ quí, gấm thêu
ngân tuyến, kim tuyến.
Vì cách thức trao đổi bất tiện nên thương mại không phát triển: mới đầu dùng
cách đổi chác bằng hiện vật sau dùng gia súc làm bản vị, các cậu phải mua vợ
bằng bò, thiếu nữ Ấn Độ thời xưa cũng như các “cô đem bò về cho cha mẹ”
trong truyện Homère. Sau cùng người ta dùng một thứ tiền đồng rất nặng, chỉ
được tư nhân đảm bảo thôi. Không có ngân hàng, tiền dành dụm được thì giấu
trong nhà, chôn dưới đất hoặc giao cho bạn thân giữ dùm. Tới thời Thích Ca,
người ta bắt đầu dùng tín dụng: thương nhân ở các tỉnh khác nhau giao tín dụng
trạng cho nhau. Và đôi khi người ta có thể vay tiền của họ, lãi 18 phân mỗi năm,
họ cũng dùng nhiều hối phiếu. Hệ thống tiền tệ đó không làm nản lòng các con
bạc và những con thò lò đã thành một vật cần thiết cho văn minh. Có nhiều khi
nhà vua mở sòng bạc cho dân chúng nướng tiền – y như Monaco ngày nay – để
cho quốc khố thêm dồi dào. Chúng ta có thể cho như vậy là xấu xa vì ngày nay
chúng ta không quen thấy chính phủ làm tiền dân cách đó.
Trong công cuộc làm ăn buôn bán, người Ấn Độ thời Veda rất lương thiện. Các
vua chúa thời đó, cũng như vua chúa Hi Lạp thời Homère, nhiều khi ăn cướp bò