đây làm một việc nho nhỏ.”
Tôi chợt nghĩ chúng tôi nên tiến hành công việc thì tốt hơn. Tôi chào tạm
biệt bà Marple rồi hai chúng tôi lại trở vào rừng.
Ban đầu chúng tôi men theo lối mòn cho đến một chỗ có dấu chân người
từ đó rẽ sang bên phải. Lawrence giải thích anh ta đã đi theo cái dấu vết đặc
biệt này và thấy nó chẳng dẫn đến đâu cả, nhưng anh ta nói thêm rằng cả hai
có thể thử lần nữa xem sao, vì có thể anh ta nhầm lẫn.
Tuy vậy, sự thể đúng như anh ta đã nói. Đi được khoảng hơn chục thước
thì các dấu vết cành lá bị xéo gãy mất dần. Chính là từ chỗ này Lawrence đã
quay lại lối mòn và gặp tôi hồi chiều.
Chúng tôi lại quay trở về lối mòn và đi xa hơn một chút. Lại một lần nữa
chúng tôi đến chỗ có các bụi cây bị giẫm đạp. Những dấu hiệu rất mờ nhạt
nhưng theo tôi là không thể nào nhầm lẫn. Lần này thì dấu vết ấy nhiều hứa
hẹn hơn. Sau một đoạn vòng vèo, nó dẫn đến gần nhà mục vụ. Chẳng mấy
chốc chúng tôi đến chỗ các bụi cây vươn lên đan kín bờ tường. Bức tường
này rất cao và phía trên có gán mảnh chai vỡ. Nếu ai đó bắc thang trèo lên ở
đây thì nhất định chúng tôi sẽ tìm ra dấu vết.
Chúng tôi đang chậm rãi tìm kiếm dọc theo bờ tường thì bỗng có tiếng
cành cây gãy vọng đến. Tôi vội vàng gắng sức len qua các bụi cây rậm rạp
mà bước tới — và đối mặt với Thanh tra Slack.
“Là mục sư đó sao?” ông ta nói. “Cả ông Redding nữa. Quý ông nghĩ
mình đang làm gì ở đây vậy?”
Hai chúng tôi ỉu xìu giải thích.
“Ra là thế,” thanh tra nói. “Chúng ta không phải đồ ngốc đâu, bản thân tôi
cũng nghĩ giống hệt. Tôi đã ở đây hơn một tiếng đồng hồ. Các ông có muốn
biết điều gì không?”
“Có chứ,” tôi ngoan ngoãn đáp.
“Bất kể là kẻ nào giết đại tá Protheroe đi nữa thì hắn cũng không đi bằng
đường này! Không có dấu vết nào trên bờ tường bên này cũng như bên kia.
Dẫu là ai thì hắn cũng đã vào bằng cổng chính chứ không vào đường nào
khác.”