chuyện với nhau. Trước khi bước vào cuộc nói chuyện tai ác ấy, Aliosa rất
muốn ghé qua nhà Dmitri để gặp anh mình. Không cần đưa bức thư ra, anh
có thể nói với Dmitri một điều gì. Nhưng, nhà Dmitri ở xa, và chắc bây giờ
cũng không có nhà. Anh đứng tại chỗ một lát, rồi cuối cùng anh quyết định.
Anh làm dấu thánh bằng một cử chỉ quen thuộc và vội vã, mỉm cười cái gì
không rõ và cả quyết đi đến gặp người phụ nữ đáng sợ ấy.
Anh biết nhà nàng. Nhưng nếu ra Phố Lớn, rồi qua quảng trường và vân
vân thì không phải là gần lắm đâu. Thành phố chúng tôi không lớn, nhung
phân bổ hết sức rải rác, từ khu vực này đến khu vực khác khá xa. Vá lại,
ông già đang chờ anh, có lẽ ông vẫn chưa quên việc ông ra lệnh cho anh
phải về nhà, có thể ông sẽ lại nổi tính đồng bóng, vì vậy cần gấp vội lên để
kịp đến đấy và mau mau về nhà. Vì những lý do ấy, anh quyết định đi tắt
qua lối sân sau cho nhanh, ngõ ngách trong thành phố anh biết rõ như năm
đầu ngón tay mình. Đi lối sân sau tức là hầu như không có đường, men theo
các bờ tường vắng vẻ, đôi khi trèo qua hàng rào nhà người ta, đi qua những
mảnh sân nhà ở đó ai cũng biết anh và mọi người đều chào hỏi anh. Đi cách
ấy anh có thể rút ngắn được nửa đường ra Phố Lớn. Ở một chỗ, anh phải đi
qua sát cạnh nhà bố, phải qua một khu vườn cạnh vườn nhà, khu vườn này
thuộc về một căn nhà nhỏ cũ kỹ, xiêu vẹo có bốn cửa sổ Aliosa biết rằng
người chủ nhà này là một bà lão tiểu thị dân cụt chân sống với cô con gái
trước là một cô hầu phòng văn minh, thủ dô, mới đây cô ta còn đi làm cho
các nhà quan, nhưng chừng một năm nay mẹ ốm nên cô ta ở nhà, song lúc
nào cũng vẫn diện những bộ cánh sang trọng. Bà lão này và cô con gái đã
lâm vào cánh nghèo túng ghê gớm, thậm chí hàng ngày vẫn sang bếp nhà
Fedor Pavlovich xin súp và bánh mì. Marfa Ignanevna sẵn lòng đãi họ. Cô
con gái này phải đi xin súp, song không bán một bộ cảnh nào cả, thậm chí
cô ta có một bộ áo đuôi dài lê thê.