ban ơn lành cho anh, hai tay nâng bổng anh lên gần bức ảnh như dâng anh
cho Mẹ che chở…
Bỗng nhiên người vú chạy vào và hoảng hốt giằng lấy anh. Một cảnh tượng
phi thường! Giây lát ấy Aliosa ghi sâu vào ký ức gương mặt mẹ: anh nói
rằng khuôn mặt ấy bị kích động cực độ, nhưng đẹp tuyệt vời theo chỗ anh
nhớ được. Nhưng ít khi anh th ố lộ với ai kỷ niệm ấy. Thời thơ ấu và thanh
niên, anh ít thổ lộ tâm tình, thậm chí ít nói, nhưng không phải vì không tin
người, không phải vì nhút nhát hay vì tính tình ủ dột ưa cô độc, hoàn toàn
trái lại là đằng khác, đấy là vì một cái gì hoàn toàn khác, dường như vì một
mối bận tâm sâu kín nào đó không liên can gì đến người khác, nhưng cực
kỳ quan trọng đối với anh, khiến anh dường như quên cả mọi người. Nhưng
anh yêu mến mọi người: dường như suốt đời anh hoàn toàn tin người mà
chẳng bao giờ có ai coi anh là kẻ ngờ nghệch hay ngây thơ. Ở anh có cái gì
lên tiếng nhắn nhủ (và sau này suốt cả đời cũng vẫn thế) rằng anh không
muốn phán xét người khác, anh không muốn phán xử và không phán xử gì
ai hết. Thậm chỉ có vẻ như anh dung thứ hết, tuyệt không chê trách gì cả,
tuy thường thường anh rất đỗi buồn rầu đau xót. Hơn thể, về mặt này anh
đã đạt tới mức không còn ai có thể làm anh ngạc nhiên hay sợ hãi, mà anh
như thế ngay từ thời mới bước vào tuổi thanh xuân. Về nhà bố năm hai
mươi tuổi, lọt đúng vào cái ổ truỵ lạc nhuốc nhơ, anh, một người trinh
tuyền và trong trắng, chỉ lẳng lặng lánh đi khi thấy những cảnh không thể
chịu nổi, nhưng không hề tỏ vẻ khinh bỉ hay chê trách một ai. Ông bố trước
kia là kẻ ăn chực nên nhạy cảm và rất dễ chạnh lòng, mới đầu có thái độ
nghi ngại và cau có với anh ("nó cứ lẳng lặng, nhưng suy xét nhiều"), tuy
vậy chẳng bao lâu lão lại rất hay ôm hôn anh, chỉ khoảng sau hai tuần là
cùng, thực ra nước mắt và sự xúc cảm của lão chỉ là tình cảm trong cơn say,
nhưng rõ ràng là lão yêu con thành thật và sâu đậm, một kẻ như lão cố
nhiên chưa từng yêu ai như vậy.