hòa nhã, thân thiện với người khác nhưng y không kìm nén được lửa giận
dâng trào, lớn tiếng quát vang:
“Xích Vân lâu luôn chú trọng tới những chữ thiện, thành, nghĩa, kể cả tu
luyện pháp thuật, học vẽ bùa niệm chú thì cũng là để hành thiện giúp
người, bảo vệ cho trăm họ được bình an. Nhưng giờ đây, cái thiện của các
ngươi ở đâu? Cái thành, cái nghĩa của các ngươi ở đâu? Các ngươi làm thế
này thực là vô sỉ hèn hạ, mất hết tính người!”
Y căm phẫn tột cùng, lời lẽ cũng rất kịch liệt. Gã đệ tử cầm roi kia nghe
vậy bèn cười lạnh một tiếng, nói: “Ta còn tưởng là ai, hóa ra là tên phản đồ
ngươi. Tất Phi, uổng cho bọn ta lúc trước còn gọi ngươi một tiếng “đại sư
huynh”, ngươi được lắm, câu kết với yêu ma, bị một con tiểu nha đầu dụ
dỗ, bảo vệ cho yêu xà và con súc sinh gấu trúc kia. Sao, chơi chán tiểu nha
đầu đó rồi, bây giờ chuyển qua dan díu với con hổ cái này à?”
“Ngươi!” Tất Phi giận đến cực điểm, nhất thời chẳng nói được gì. Y nắm
chặt hai tay, cố ép cho mình bình tĩnh, lại hít sâu một hơi, trầm giọng nói:
“Triệu Minh, ngươi có biết mình đang nói cái gì không? Ngươi ở Xích Vân
lâu tu hành mười mấy năm, thế mà chỉ tu được những lời lẽ bẩn thỉu này
thôi sao?”
“Ha ha, không ngờ ngươi vẫn còn nhớ ta cơ đấy.” Triệu Minh quất mạnh
cây roi dài một cái, trong mắt đầy vẻ hằn học, nhìn trừng trừng vào Tất Phi.
“Xem ra trí nhớ của ngươi không tệ. Không biết ngươi có còn nhớ Triệu
Thông – người ca ca đáng thương của ta không?”
Tất Phi thầm run lên, im lặng không nói gì. Cái chết của Triệu Thông là
một gút thắt trong lòng y. Ngày đó, ở Bạch Hà trấn, mấy chục đệ tử của hai
phái Xích Vân lâu và Thập Phương điện lấy Nguyệt Tiểu Trúc làm mồi
nhử, dụ Quy Hải Minh xuất hiện, sau đó dùng Thiên Anh Huyết đả thương