đứng đó, như thể tiếng sáo chưa từng dừng lại, dư âm vắt vẻo vang vọng
mãi bên tai.
Lục Linh tuy không phải là người thông hiểu âm luật, nhưng từ trong
tiếng sáo, cô ta rõ ràng có thể nghe ra được sự cô đơn, sự bi thương và thấp
thoáng đôi chút hối hận. Cô ta chẳng chút nghĩ ngợi, buột miệng nghi hoặc
hỏi: “Ân công, ngài có bằng hữu không?”
Người thanh niên im lặng, hồi lâu sau mới hé môi khẽ nói: “Đã từng có.”
“Vậy thì hay lắm!” Lục Linh không chút nghĩ ngợi nói ngay. “Chúng ta
gặp nhau tức là có duyên, huống chi ân công còn có cái ơn cứu mạng với
ta. Đã như vậy, chi bằng chúng ta kết giao bằng hữu đi, được không? Tiểu
nữ họ Lục, tên chỉ có một chữ là Linh, xin cho hỏi quý tính của huynh?”
“Duyên… ư?” Người thanh niên lẩm bẩm tự hỏi mình. Mãi hồi lâu sau,
khi Lục Linh cất lời nhắc nhở, hỏi han tên họ của y lần thứ ba, người thanh
niên đó mới khẽ khàng nói ra một chữ: “Bạch.”
Người này chính là thư sinh Tiểu Bạch. Lục Linh nhất quyết muốn báo
đáp ơn cứu mạng của y, nhưng y lại nói đây “chỉ là chuyện nhỏ, không
đáng nhắc tới”, cho nên không đòi hỏi gì. Lục Linh vốn tính bướng bỉnh,
thấy Tiểu Bạch sống giữa một sơn cốc vắng vẻ, xung quanh chẳng có bạn
bè gì, hết sức cô độc lẻ loi, bèn ở lại luôn trong sơn cốc, đêm đến thì ngủ lại
ngoài trời ở một nơi cách căn nhà gỗ vài dặm. Thường ngày, cô ta không có
việc gì làm thì đi đào khoai lang, lại ra ngoài kiếm lấy một ít bắp ngô và hạt
dẻ, mang về nướng chín rồi đặt trước cửa nhà Tiểu Bạch, coi như tỏ lòng
cảm tạ.