cực tinh khôn, bày đặt ra đột ngột như vậy chẳng khác gì: “Lạy ông tôi ở
bụi này”, báo động cho nó đối phó. Ý định này phải hủy bỏ.
Từ sáng sớm ngày J – 1, mọi công việc triển khai lực lượng đã hoàn tất.
Một trinh sát hóa trang làm một người nông dân cặm cụi cuốc đất ở một
mảnh ruộng gần cổng ra vào của nghĩa trang. Một chiếc Hon-da để sẵn tại
đó – Một chiến sĩ gái sắm vai một cô gái đi quét lá khô trong nghĩa trang để
đem về đun nấu.
Trong khi đó, ở trong ấp, Rồng Xanh cũng đã kiếm được một cây đa cao
và leo tót lên, bằng ống viễn kính nhòm thẳng vào nghĩa trang. Nhưng ống
kính lại bị một nhà bia cao che khuất. Tuy nhiên, hết sức đáng mừng, ngôi
mộ số 201 của cô gái bất hạnh xưa nằm ở một vị trí khá quang đãng ở góc
trái của nghĩa trang, phía xa lộ.
Mặt trờ đã lên cao, mà nghĩa trang vẫn vắng hoe. Xe hơi chốc chốc lại vụt
qua, xe gắn máy, xe đạp gần như liên tục ngược xuôi. Khách bộ hành cũng
khá đông. Nhưng khách vào viếng mộ thì không có mấy, chỉ trừ hồi 6 giờ
30 phút có một chiếc Hon-da từ phía thành phố phóng tới, đỗ lại ở cổng
nghĩa trang, rồi một ông trạc 52, 53 tuổi đi vào với một bó hoac nhỏ, một
thẻ hương trên tay. Ông ăn vận nửa bộ đội, nửa dân, sơ mi trắng, dép da
không quai hậu, nhưng lại mang mũ cối không có sao, “người làm ruộng” ở
gần cổng, và “cô gái quét lượm lá khô” trong nghĩa trang đều chú ý và nhận
ra chiếc đồng hồ tay kiểu cổ, có dây da mới in hình lạc đà của người khách
vào viếng mộ. Họ biết đó là người có nhiệm vụ đem tài liệu đến đặt vào hộp
thư mật.
Ông lần tìm tới ngôi mộ thứ 201. Trên tấm bia xi măng có gắn hình một
cô gái trạc 20, 21 tuổi, mặt buồn héo hon. Ông khách đặt bó hoa xuống, xòe
bật lửa châm cả nắm hương. Ông vừa buồn rầu vừa kính cẩn đi tới bát
hương đắp bằng xin măng rồi cắm cả nắm hương vào đó, đoạn chắp tay vái
lạy, cúi đầu lâm râm khấn vái hồi lâu. Cuối cùng, trước khi ra về, ông khách
nhìn trước nhìn sau, không thấy có ai, bèn nhẹ nhàng lật nghiêng chiếc bát