hương lên. Một cái hốc chữ nhật dài khoảng một gang tay lộ ra. Hốc cũng
được tráng xi măng, sạch sẽ và khô ráo. Nhanh như cắt, ông khách rút túi
lấy ra mọt cuốn sách nhỏ bỏ vào đó rồi đặt chiếc bát hương lại y như cũ.
Ông cúi đầu chắp tay, vái hình cô gái một lần nữa, rồi âm thầm, rầu rĩ quay
ra, lấy Hon-da quay trở về.
Từ đó cho tới 11 giờ mới lại thấy một chiếc Honda khác xuống. Xe do
một thanh niên chở một bà già. Anh thanh niên đứng ở ngoài. Chỉ riêng bà
già vào viếng mộ. Bà tới một ngôi mộ ở tít góc đối xứng phía bên kia với
ngôi mộ số 201.
Sau đó cho tới chiều, hồi 3 giờ 30 phút; thêm hai lần nữa có khách vào
nghĩa trang. Nhưng vẫn chẳng có ai lai vãng tới ngôi mộ số 201.
Qua ngày thứ hai – chính là ngày J, ngày hẹn chính – khách tuy có đông
hơn, tổng cộng tới tám lần khách vào viếng mộ. Có khách đi lẻ, có khách đi
hai người, có toán đi tới ba bốn người… Nhưng cũng vẫn không một ai tới
ngôi mộ số 201.
Chỉ có một lần các chiến sĩ trinh sát hồi hộp muốn rụng tim; có một ông
béo tốt phục phịch xăm đi xăm tới phía mộ đó. Nhưng còn cách hai hàng
mộ nữa thì ông chợt nhớ ra mình lầm, vội vã quay trở lại. Cuối cùng ông đã
tìm thấy mộ người nhà ở cách đó hai hàng, nhưng ở phía sau. Và ông ta quỳ
xuống, khóc lóc âm thầm mãi, hàng giờ mới quay ra…
Rồng Xanh rất sốt xuột. Khi hoàng hôn đã phủ tím biếc trên khắp cánh
đồng, anh từ trong ấp đi thẳng ra nghĩa trang.
Suốt đêm đó tự anh bám địa điểm không rời nửa bước, không chợp mắt
một phút, mặc cho các chiến sĩ cứ Bốn giờ một lần, thay ca cho nhau, lợi
dụng đêm tối, ém mình sau các hàng bia và các bức tường bao quanh nghĩa
trang để đón chờ “người tới lấy tài liệu”.
Đến tảng sáng, sương lạnh đã làm cho thịt da Rồng Xanh tái ngắt, bộ áo
quần trên mình anh đã gần như ướt hết. Rồng Xanh mới chịu quay trở về
ấp.