khảo sát qua máy móc điện tử về tâm lý, về thần kinh, về trí nhớ. Và cũng
qua một loạt việc đột xuất để thử thách, xem xét, đánh giá lại năng lực làm
việc.
1967, tôi được CIA cho bí mật sang Mỹ học về tình báo gián điệp một
cách cơ bản. Tôi đi vào tháng 10 năm đó trên một chiếc máy bay riêng của
CIA, và chỉ có mình tôi là người Việt trong chuyến ấy.
Sau hơn một năm được các chuyên gia của Mỹ trực tiếp huấn luyện về
nghệ thuật tình báo, về tâm lý học, về triết học. Lẽ cố nhiên là triết học
phản động, chống Cộng, rồi các mặt kỹ thuật như điện đài, mật mã, cuối
cùng là các môn bắn súng, võ thuật, đặt mìn, đầu độc và tuyên truyền, tung
tin giả, v.v… Tôi được trở về nước cuối năm 1968. Khi ấy ở nước nhà đã có
biến cố Mậu Thân, và Mỹ đã nhìn thấy được: sẽ không thể thắng bằng chiến
tranh, phải có giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Do
đó chiến tranh gián điệp sẽ phải đẩy lên hàng quốc sách. Tôi về nước đúng
lúc ấy.
Tôi tạm thời lại tiếp tục hoạt động cho Trung tâm chống sốt rét. Tụi tình
báo ngụy chỉ được biết rằng hơn một năm qua tôi “bị bệnh gan” phải qua
Mỹ chữa. Tuy nhiên, chúng cũng ngờ ngợ tôi đã làm việc cho CIA, ngờ ngợ
nhưng không một đứa nào dám tò mò. Bọn chúng rất kiềng, rất sợ CIA. Tôi
được người của Pôn-ga bảo cứ tiếp tục làm việc cho Trung tâm chống sốt
rét. Khi nào cần sẽ có lệnh. Ông P (tức PONGA) rất không muốn dùng tôi
vào việc vặt. Ông tin là tôi sẽ thích hợp với những trách vụ có tầm chiến
lược. Qua năm 1970, tôi được lệnh CIA tới chiếm lãnh địa bàn ở Z và
chuẩn bị “vào cuộc”. Thế là tôi xin chuyển lên làm công vụ chống sốt rét ở
đó, đồng thời mở rộng công tác sang các mặt xã hội để xây dựng dần một
vốn chính trị trong quần chúng. Tôi “hăng hái” làm đủ các việc trong các
phong trào như cứu đói, chống nạn mù chữ… Tôi hoạt động rất mạnh trong
giới tuổi trẻ lúc đó đang sôi nổi dấn thân vì đất nước, nhằm để thu hút và
nắm lấy họ.