lại trên bầu trời. Chúng không lộ ra, vì các đám mây rất thấp, còn khinh khí
cầu lại phải duy trì ở một độ cao nhất định phía trên Vùng đầm lầy, nhưng
ai mà biết được họ đem theo dụng cụ tìm kiếm tinh xảo nào trên đó? Tốt
nhất là trốn đi khi cô nghe thấy tiếng máy, hay trùm một chiếc áo khoác vải
đầu lên mái tóc dễ bị phát hiện của mình.
Cô chất vấn Mẹ Costa về tất cả các chi tiết về sự ra đời của mình. Cô đan
các chi tiết thành một tấm thảm tưởng tượng thậm chí còn rõ ràng và sắc
nét hơn cả câu chuyện thực. Cô thêu dệt thêm, kể đi kể lại những chuyện về
căn lều nhỏ, chỗ ẩn náu trong gian hầm, kẻ thù có giọng nói chói tai và
tiếng kiếm va vào nhau loảng xoả
“Những lưỡi kiếm à? Lạy chúa, cô bé, cháu đang mơ đấy à?” Mẹ Costa
nói. “Ông Coulter có một khẩu súng lục, Ngài Asriel đánh nó bay khỏi tay
ông ta và đánh gục ông ta chỉ bằng một cánh tay. Rồi sau đó có hai tiếng
súng. Chắc là cháu không thể nhớ được vì lúc đó còn bé quá. Phát súng đầu
tiên là của Edward Coulter, ông ta rút súng và bóp cò, phát thứ hai là của
Ngài Asriel, ông chộp lấy súng và quay nòng vào Edward Coulter. Phát
súng đúng vào giữa mắt và làm vỡ sọ ông ta. Rồi ông ấy nói với thái độ
bình khủng khiếp. 'Ra đi, bà Costa, và bế đứa bé ra đây,' vì lúc đó cháu
đang khóc thét lên, cháu và con nhân tinh bướm đêm của cháu. Ông ấy bế
lấy cháu, nựng cháu và cho cháu ngồi trên vai, đi qua đi lại với tâm trạng
vui tươi hớn hở, trong khi xác người đàn ông nằm sõng sượt dưới chân.
Ông ấy gọi người mang rượu tới và bảo ta lau sàn nhà.”
Đến lần kể đi kể lại thứ tư thì Lyra hoàn toàn bị thuyết phục rằng cô nhớ
được câu chuyện xảy ra thế nào, thậm chí còn thêm vào chi tiết về màu áo
khoác của ông Coulter, chiếc áo choàng va áo lông treo trong căn phòng
nhỏ. Mẹ Costa bật cười trước câu chuyện của Lyra.
Mỗi khi cô có một mình, Lyra lại mang La bàn vàng ra và nghiền ngẫm
nó như một người đang yêu say mê ngắm bức hình của người mình thương