Nó vo ̣ng đến từ phı́a trên đầu tôi. Trên cao và rất xa.
Nhỏ đang trong phòng ngủ, đúng chỗ ấy rồi. Tôi không nghe rõ lời nhỏ,
nhưng tôi biết nhỏ đang lầm rầm nói với chı́nh mı̀nh.
Tôi cha ̣y qua phòng bếp. Tôi biết - với tư cách là con nhỏ Rachel - tôi
biết là mı̀nh sẽ sơ ̣ hãi. Nhưng không có gı̀ phải sơ ̣. Tất cả mo ̣i thứ ở đây
đều có mùi của tôi. Các tuyến mùi của tôi đã ghi dấu trên khắp mo ̣i nơi -
trên cái cửa ra vào, trên cái tủ ly, trên chiếc ghế kia. Điều ấy làm tôi yên
lòng.
Ở đây không có mùi của con mèo đực thống tri ̣. Không, chẳng có con
mèo nào khác ở đây hết. Chı̉ có những mùi người, và những mùi ấy chẳng
quan tro ̣ng lắm.
Tôi rời phòng bếp và ngưng la ̣i chỗ góc giữa hành lang với phòng sinh
hoa ̣t. Lão Chapman đang ở đó, trong phòng sinh hoa ̣t. Tôi ngửi thấy mùi
của lão ta. Lão đang ngồi trên cái ghế nê ̣m. Tôi nhı̀n lão thâ ̣t nhanh và lững
thững đi tới.
Nhưng rồi tôi dừng la ̣i. Trı́ óc người của tôi cảm thấy cảnh tươ ̣ng này
có cái gı̀ đó không ổn. Lão Chapman ngồi chơ vơ trên ghế. Không tivi.
Không âm nha ̣c. Không đo ̣c sách báo. Chı̉ ngồi đấy.
Tôi quay trở la ̣i phòng bếp. Tôi ngước nhı̀n bà Chapman. Bà đang làm
gı̀ đó ở bồn nước, có lẽ là rửa chén. Không, bà đang xắt rau. Nhưng cũng
la ̣i không tivi, không âm nha ̣c. Bà không tự lầm bầm với mı̀nh. Bà không
nói chuyê ̣n mô ̣t mı̀nh theo cái cách me ̣ tôi hay làm mỗi khi làm viê ̣c trong
bếp.
Không ổn rồi. Có cái gı̀ đó không ổn với từng người trong gia đı̀nh
Chapman.
Tôi trở la ̣i hành lang. Ở đó có cầu thang dẫn lên các phòng ngủ. Từ
hành lang tôi có thể nghe tiếng Melissa rõ hơn. Tôi cố tâ ̣p trung, ráng lơ đi
những âm thanh mê hoă ̣c của lũ chim dưới mái nhà. Tôi tâ ̣p trung vào
những âm thanh Melissa phát ra.
“… chia cho căn bâ ̣c hai… không, chờ đã. Không, căn bâ ̣c hai nhân
với… Đúng không đây?”
Nhỏ đang làm bài tâ ̣p ở nhà. Bài tâ ̣p toán, hẳn rồi.