trong mô ̣t lúc thôi thı̀ thú vi ̣, chứ làm mãi mãi thı̀ chẳng vui đâu. Hai tiếng
đồng hồ của bồ đang trôi đi. Tı́ch tắc, tı́ch tắc.>
Câu đó khiến tôi chú ý. Giống mô ̣t gáo nước la ̣nh dô ̣i vào mă ̣t. Tôi tâ ̣p
trung trı́ óc người để áp đảo trı́ óc mèo. Nhưng đâu có dễ. Đến cái khái
niê ̣m vâng lời, trı́ óc mèo cũng không hiểu nổi.
Vâ ̣y rồi tôi sử du ̣ng mô ̣t thứ có thể tác đô ̣ng đến con mèo. Đó là ký ức
về mùi của con mèo đực thống tri ̣. Nó kı́ch thı́ch sự phu ̣c tùng của con mèo
này. Tôi cảm thấy phần người của mı̀nh trong cái trı́ óc tâ ̣p thể kia tăng lên.
<Bồ tới nơi rồi đó,> Tobias báo. <Đúng cái sân này rồi.>
<Ờ, mı̀nh biết mà. Chỗ nào cũng có mùi của mı̀nh. Toàn bô ̣ khu này sực
nức mùi của mı̀nh. Nhà mı̀nh đây rồi. Tất cả thuô ̣c về mı̀nh mà.>
<Rachel a ̣, tất cả nơi này thuô ̣c về lão Chapman. Mà lão ta thuô ̣c về
Visser Ba. Bồ đừng quên điều ấy.>
Tôi cha ̣y tới cái lỗ mèo chui. Chapman. Visser Ba. Chuyê ̣n hê ̣ tro ̣ng
đây. Tôi là mô ̣t sự kết hơ ̣p giữa Rachel và Fluffer. Sơ ̣ gı̀ lão Chapman và
Visser Ba kia chứ?
Bên trong nhà, đèn rất sáng. Mắt tôi lâ ̣p tức điều chı̉nh. Mũi tôi cha ̣m
vào mùi thức ăn cho mèo, nó khô khốc và cũ mèm nên chả đáng quan tâm.
Tôi cũng ngửi thấy mùi người: Melissa, lão Chapman và bà vơ ̣. Đừng có
hỏi làm sao tôi biết đó là mùi của ba người ấy. Tôi biết, thế thôi.
Tôi phát hiê ̣n ra mô ̣t con gián trong bóng tối đầy bu ̣i đằng sau tủ la ̣nh.
Chẳng có gı̀ thú vi ̣. Lũ gián đôi khi phát ra những tiếng xè xè ngồ ngô ̣ và
nhı̀n chúng cha ̣y thı̀ cũng vui. Nhưng chúng hôi quá, la ̣i chẳng ăn đươ ̣c.
Bỗng tôi thấy những đô ̣ng tác mau le ̣.
Những bàn chân. Những bàn chân người. Chẳng thèm ngẩng lên tôi cũng
biết đó là bà Chapman.
Những tiếng rùng rùng từ đô ̣ng cơ tủ la ̣nh. Ồn quá. Cũng có những tiếng
chim bên ngoài vo ̣ng vào từ mô ̣t tổ chim ở bên dưới mái nhà.
Rồi là tiếng của Melissa.
Nhỏ ở đâu vâ ̣y nhı̉? Tôi chẳng nhı̀n thấy nhỏ đâu. Tiếng Melissa nghèn
nghe ̣t.
Tôi ráng tâ ̣p trung nghe. Tai tôi ngo ̣ nguâ ̣y để hướng về phı́a tiếng đô ̣ng.