là con mồi thực sự, nhưng rất nhiều con có thể săn đuổi cho vui.
Lão Chapman là con mồi, tôi tự nhắc nhở mı̀nh. Chúng ta đang săn lão
Chapman.
Đó là mô ̣t kiểu phòng tivi, trong đó có mô ̣t bàn bi-da, vài cái ghế tựa cũ
kỹ và mô ̣t chiếc ghế nê ̣m. Nhưng rõ ràng đã lâu không ai sử du ̣ng phòng
này. Không có mùi người trên những đồ đa ̣c ấy. Chỗ nào cũng đầy bu ̣i và
tôi nghe thấy cả tiếng những con nhê ̣n bên trong cái tivi.
Cả tầng hầm chı̉ có mô ̣t lối băng qua suốt tầng là có vẻ đươ ̣c sử du ̣ng
tới. Tôi ngửi thấy những mùi mà đôi giày của lão Chapman để la ̣i ở đấy.
Lão đi theo lối băng qua tầng hầm đến mô ̣t cái cửa. Đó là mô ̣t cái cửa
giản di ̣ sơn màu trắng. Lão rút trong túi ra mô ̣t chùm chı̀a khóa và mở khóa
cửa.
Lão mở cửa và bước qua. Đi tiếp khoảng mô ̣t mét rưỡi la ̣i có mô ̣t cái
cửa thứ hai. Cửa này làm bằng thép sáng loáng. Trông giống như cửa hầm
bảo mâ ̣t ở nhà băng. Bên ca ̣nh cửa thép có mô ̣t bảng đèn nhỏ hı̀nh vuông
màu trắng. Lão Chapman áp bàn tay lên đấy.
Cửa thép mở ra. Nó cha ̣y vào trong tường giống như những cái cửa của
con tàu Star Trek.
Tôi biết mı̀nh phải đi theo lão. Nhưng trı́ óc người của tôi thı̀ sơ ̣, còn trı́
óc mèo la ̣i chẳng thấy có gı̀ cần phải bước vào cái chỗ tối om ấy. Với cả
hai chúng tôi, nó có mùi vi ̣ của mô ̣t cái bẫy. Mô ̣t nơi mà vào đó rồi thı̀
chúng tôi sẽ không có đường ra.
Nhưng tôi phải vào. Tôi phải vào đó. Đó là điểm mấu chốt của chuyến
do thám này mà.
Và lão Chapman là con mồi của tôi.
Vào giây cuối cùng, đúng lúc cái cửa rı́t lên để đóng la ̣i, tôi nhảy vo ̣t
vào trong phòng.
Thoa ̣t tiên thı̀ tối mò, nhưng tôi đâu có ngán bóng tối. Rồi lão Chapman
bâ ̣t mô ̣t ngo ̣n đèn mờ mờ. La ̣ thay, tôi thấy trong tối mı̀nh la ̣i nhı̀n rõ hơn
trong ánh đèn mờ.
Có mô ̣t cái bàn viết kiểu gắn sâu vào trong tường. Nó làm bằng thép