hay nghe được. Nhưng có một lúc nào đó, rất họa hoằn, có một lúc nào đó,
ở một nơi nào đó, có một ai đó đã tìm thấy cái từ ấy. Họ đã phát hiện thấy
nó trên những mẩu bản thảo cũ hoặc được khắc trên những mảnh đá cổ.
Nhưng khi nói cái từ ấy ra họ đã bị đưa đi xử tử. Không có tội lỗi nào bị
trừng trị đến xử tử trong thế giới này, ngoại trừ tội nói ra cái từ Bất khả
Thốt đó.
Chúng ta đã từng mục kích một người như thế bị thiêu sống ở quảng
trường thành phố. Và hình ảnh đó cứ mãi lưu lại trong chúng ta qua từng ấy
năm, nó đeo bám, ám ảnh chúng ta, không cho chúng ta được một lúc nào
ngơi. Lúc đó chúng ta chỉ là một đứa bé con mười tuổi. Và chúng ta đã
đứng ở quảng trường lớn cùng với toàn bộ trẻ con và người lớn trong thành
phố, được đưa tới đây để làm lễ thiêu. Họ mang kẻ Tội đồ vào quảng
trường rồi dẫn lên giàn hỏa. Người ta đã kéo lưỡi Kẻ tội đồ để họ không
còn nói được nữa. Kẻ Tội đồ là một thanh niên cao lớn, với mái tóc vàng
óng và đôi mắt xanh biếc như bầu trời ban mai. Họ bước lên giàn hỏa
không chút ngần ngừ. Và với những mặt người từ khắp các nơi trong quảng
trường, những khuôn mặt cau có, la hét, vung ra những lời nguyền rủa cay
độc về phía họ, vẻ mặt họ vẫn ngời sáng một niềm hạnh phúc điềm tĩnh vô
bờ.
Lúc những sợi xích sắt quất vụt lên khắp tấm thân đang bị trói chặt vào
cột, và ngọn lửa bắt đầu bùng lên trên giàn thiêu, Kẻ Tội đồ ngó nhìn khắp
cả thành phố. Một vệt máu rỉ ra từ khóe miệng, nhưng đôi môi họ vẫn mỉm
cười. Bỗng dưng một ý nghĩ khủng khiếp thoáng qua, và cứ còn đọng mãi
trong chúng ta. Chúng ta nghĩ về các Thánh. Chúng ta đã có Thánh Lao
động, Thánh Hội đồng, và các Thánh của thời Tái Sinh. Thế nhưng chúng ta
chưa bao giờ trông thấy Thánh, cũng như chưa hề biết một vị Thánh là phải
như thế nào. Lúc đó, đứng nơi quảng trường, chính gương mặt mà chúng ta
đang nhìn thấy trước mặt mình chập chùng trong đám lửa, khuôn mặt của
kẻ Tội đồ đối với Từ Bất Khả Thốt, đã khiến chúng ta nghĩ tới Thánh.