qua lớp kính cửa sổ dày của một đoàn tàu tốc hành hay chí ít là giống như
một trải nghiệm được miêu tả trong một cuốn sách vì tôi chưa từng đi tàu
hỏa bao giờ. Tôi không hề bước ra ngoài phạm vi London mãi cho đến năm
tôi 18 tuổi.
Tôi bồng bềnh trôi qua thời gian và không gian. Tôi có những giấc mơ
rối rắm, đôi khi là những cơn ác mộng. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy ma
trong thang máy. Tôi dễ bị kích động thần kinh, rụt rè, nhút nhát, dễ bị cảm
lạnh, cảm cúm và viêm amiđan. Tôi thích nằm tĩnh lặng trên giường hơn
với tấm drap, tấm chăn bông vào mùa đông - khoảng không khép kín của
căn phòng và cả những miền không gian mỗi lúc một nhỏ hơn.
Đầy khao khát nhưng không được thỏa mãn toại nguyện về những điều
mà tôi không thể nói hết thành lời hay không thể thấu hiểu, tôi gặm nhấm
mọi thứ trong nỗi thất vọng. Tôi cắn móng tay và suốt vài tuần năm tôi 11
tuổi, tôi gặm cả cốc uống nước khiến miệng tôi chảy máu. “Ở đâu ra mà
hàm con bé khỏe thế?” - bố tôi thốt lên và ngăn tôi lại.
Có một dạo, ở tuổi dậy thì, tôi mắc phải một chứng mà bây giờ người ta
gọi là rối loạn ăn uống. Tôi toàn ăn những thứ có màu trắng hay màu vàng.
Và thế là thực đơn của tôi chỉ gói gọn trong bánh mì, bơ, khoai tây, thịt gà
và bánh. Tôi đâm béo ra chứ không hề gầy đi. Rồi đột nhiên tôi lại quay
sang ghiền màu đỏ: thịt bò, cà chua, táo và đậu nuớng. Bố mẹ tôi nói
chuyện về tôi khi tôi đã lên giường đi ngủ. Tôi nghe lỏm được cuộc nói
chuyện của họ khi đang đi ra hành lang đến nhà vệ sinh đi tiểu đêm. Họ bất
đồng về việc có nên đưa tôi đi tư vấn bác sĩ hay không. Mẹ tôi nói có còn
bố tôi thì bảo không. “Đừng lo” - ông nói - “rồi con bé sẽ tự qua khỏi thôi.”
“Nếu anh lo về chuyện tiền nong thì anh không phải chi tiền đâu, anh biết
rồi mà” - mẹ đáp. “Chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả. Con bé ổn mà.
Bọn con gái đều dở dở ương ương như thế cả. Dĩ nhiên là trừ em ra,
Bertha.” Rốt cuộc, tôi cũng điềm tĩnh lại và bắt đầu nhìn đời bình thản hơn,
bắt đầu nhận thức được rằng nỗi đau sinh tồn là bình thường và hiển nhiên.
* * *