(chỗ) Minh đường mà sánh (với vì) Thượng đế (vua cõi
trên). Ấy nên (các nước) trong bốn (phía) biển đều cứ theo
chức mình (mà) đến (mà) tế. Vã chăng đức (hạnh đứng)
thánh nhơn lại có chi thêm nơi hiếu sao? Cho nên (cứ lòng)
thương (theo hồi thơ ấu) quẩn (lối) dưới gối mà nuôi cha mẹ
(thì mỗi) ngày (mỗi) nghiêm. Đức thánh nhân nhơn nghiêm
mà dạy kính, nhơn thương mà dạy mến. (Việc đức) thánh
nhơn dạy, chẳng gắc mà nên, (việc) người trị (dân) chẳng
nhặc mà yên, chỗ người nhơn đó là gốc vậy. Đạo cha con là
tánh Trời (sinh) vậy, là nghĩa vua tôi vậy. Cha mẹ sanh (ra)
đó, (việc) nối (theo là) chẳng chi lớn hơn vậy. Vua thương
(dường cha mẹ mà) trị đó, việc hậu chẳng chi trọng hơn vậy.
Cho nên kẻ chẳng thương cha mẹ, mà thương người khác,
gọi kẻ đó là trái đức; kẻ chẳng kính cha mẹ, mà kính người
khác, gọi kẻ đó là trái lễ. Về (đều) thuận thì làm nghịch, dân
không bắt chước đâu. Chẳng ở theo lành, mà đều ở theo đức
dữ; (thì) tuy là được việc đó, song le (người) quân tử chẳng
quí vậy, (người) quân tử thì chẳng vậy. Nói cho nên nói, làm
cho được vui. Đức nghĩa nên tôn, làm việc (gì) được (cho
dân) bắt chước, dung nghi (đi đứng) nên (cho dân) xem, tới
lui được (có) chừng (có) đổi, đặng mà trị dân mình; ấy nên
dân mình sợ và thương đó, bắt chước và (muốn) giống
(theo) đó. Cho nên được trọn đức mình dạy, mà làm ra lịnh
mình trị (nước). — 2. Kinh thi rằng: Người lành (cùng người)
quân tử, phép mình (làm) chẳng sai.
Bài ghi lòng thảo nết tốt, thứ mười.
1. (Đức phu) tử rằng: Con thảo nó (phụng) sự cha mẹ vậy
(thì) ở (nhà) thời nó hết lòng kính, nuôi (thì) nó hết lòng vui,