chuyến đi và chào những quản ngục mới. Một phụ nữ trung tuổi gầy gò với
mái tóc dài màu vàng tiếp nhận bà.
“Martha Andersson?” người phụ nữ gầy gò vừa hỏi vừa nhìn vào mớ
giấy tờ.
“Là tôi đây,” Martha trả lời và chìa tay ra. Bà tự hỏi liệu rằng đã có tin
đồn về việc bà chuyển tới đây chưa, bởi vì bà đã nghe nói rằng những
chuyện như thế vẫn thường xảy ra. Chẳng ai trong số tám mươi tù nhân ở
đây có thể tưởng tượng nổi một tội phạm bảy mươi chín tuổi sắp gia nhập
với họ. Nhưng tuổi tác thì nói lên điều gì chứ? Người già chín mươi tuổi
cũng có thể nhanh nhẹn hoạt bát như người bảy mươi tuổi. Mặt khác, có
những người bảy mươi lăm tuổi mà cứ như đã hơn trăm vậy. Bản thân
Martha thì vẫn còn khá khỏe mạnh. Bà đã duy trì việc tập luyện ở phòng
tập của trại tạm giam. Bà không thực sự cần đến chiếc khung trợ lực của
mình nhưng sẽ tận dụng nó khi cần làm gì phạm pháp. Martha nhận ra hầu
hết bạn tù của bà đều trẻ hơn, ở độ tuổi ba mươi hoặc bốn mươi, nhưng
điều đó không thành vấn đề. Ngược lại là khác, bà thích những người trẻ
tuổi – họ thường dám nghĩ dám làm hơn những người cùng độ tuổi với bà.
Khi quản giáo với mái tóc vàng buộc đuôi ngựa đã xem xét kỹ lưỡng
mọi giấy tờ của bà, cô ta đưa Martha tới đăng ký nhập trại. Việc này có
nghĩa Martha phải cởi quần áo để người ta kiểm tra. Thật mất thể diện khi
phải cởi quần áo và khỏa thân trước mặt người lạ, nhất là khi ta không còn
có vẻ đang trong thời hoàng kim, nhưng ở đây chuyện đó cũng chẳng có gì
quan trọng. Tất nhiên các quản giáo muốn kiểm tra xem ta có mang theo
người thứ gì đó bị cấm không.
“Cô có biết tại sao khi về già người ta lại nhăn nheo đến vậy không?”
Martha hỏi và trỏ vào những phần bùng nhùng dưới cằm và bụng bà.
“Chúng thì có ích gì chứ?”
Người phụ nữ buộc tóc đuôi ngựa nhìn lên nhưng không nói một lời.