phải quân trộm cướp,” Martha nói. Bà mở chiếc ví đeo ở thắt lưng và lấy ra
một túi kẹo thơm trái cây. Đáng lẽ bà không nên ăn đồ ngọt, nhưng đây là
một trong những lần bà rất cần sự kích thích từ đường. “Ai ăn không?” bà
mời rồi đặt chiếc túi lên bàn. Tất cả đều lắc đầu.
“Giả vờ mình không phải quân trộm cướp? Thế thì bà phải giải thích
rõ ý bà là gì đi,” Rake nói, lúc này đã bắt đầu trở nên mất kiên nhẫn.
“Chúng ta đặt những bức tranh trong giỏ khung trợ lực của tôi, xong
rồi tôi chỉ cần phủ áo choàng của tôi lên trên.”
“Phủ áo choàng của bà lên một kiệt tác cổ cỡ bự trong khi chuông báo
động đang vang lên ư?” Rake đảo mắt.
“Đừng tiêu cực thế chứ!” Martha rít lên.
“Nhưng nếu có ai đó hỏi chúng ta đang làm gì đấy, thì chúng ta biết
nói năng sao?” Christina hỏi.
“Có phải ai hỏi gì mình cũng phải trả lời đâu,” Martha đáp lại.
“Làm sao chúng ta biết bức tranh nào có gắn chuông báo động?”
Brains hỏi, và ngay lập tức bắt đầu suy nghĩ về các khả năng làm chập
mạch hệ thống báo động.
“Tôi nghĩ các tác phẩm của Rembrandt và Van Gogh là có,” Martha
giải thích, “và có lẽ Paul Gauguin nữa. Nhưng có lẽ các tác phẩm của Carl
Larsson thì không và ông ấy đã bán nhiều bức giá cao ở Bukowskis.”
“À ha, những người bán đấu giá,” Anna-Greta nói vẻ hiểu biết. “Vậy
là đầu tiên chúng ta sẽ ăn cắp những bức tranh đắt tiền rồi đem bán chúng ở
Bukowskis. Tôi không nghĩ như thế sẽ ổn đâu. Người ta sẽ nhận ra chúng
là các tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp.”
“Chính vì thế tôi đã nghĩ tới một thứ khác,” Martha nói. “Chúng ta sẽ
không chỉ ăn cắp những bức tranh như trộm bình thường. Chúng ta sẽ bắt
cóc chúng. Sẽ chẳng có gì bị hủy hoại, không ai bị trộm, và không ai phải