1. Cậu thanh niên gầy gò đứng sau quầy bar khẽ chỉnh lại cặp kính
cận, nhìn tôi rồi nói, “Đã đến giờ của anh phải không.” Tôi thường
ghé qua quán bar này vào cuối tuần. Con phố nhỏ dài chưa đến ba
trăm mét mà có tới gần hai chục cái quán bar xen lẫn các quán cafe.
Các quán hầu hết đều nhỏ, tối tăm và mở nhạc rất lớn. Khách tới các
quán bar vào cuối tuần chủ yếu là người nước ngoài. Quán mà tôi ưa
thích thực ra rất cũ, rất nhỏ, và rất tối. Tôi thích cái quán này vì
khách ở đây đa phần là người nước ngoài lớn tuổi và sống ở thành
phố này khá lâu. Một vài nhóm thanh niên người Việt cũng thường
xuyên ngồi ở đây. Họ hay uống Tequila và chơi cá ngựa.
Tôi thường ngồi trên chiếc ghế gỗ cao ở cuối quầy bar. Tôi thích vị trí
này. Từ đây tôi có thể nhìn ra phía cửa ra vào, phía tường gần cửa có
treo một cái TV cũ kỹ. Phía trên giá để ly pha rượu, ngay trên đầu
chỗ tôi ngồi, là một quả chuông nhỏ. Lắc quả chuông này có nghĩa là
mời tất cả những người có mặt trong quán một đồ uống. Tôi chưa
bao giờ lắc cái chuông ấy.
Tôi thường rời quán sau một giờ sáng, khi đã uống hết một lon tonic
màu vàng. Thực ra tôi uống gin, nhưng hay mua một cả một lon
tonic. Khi pha đến ly gin cuối cùng, cậu thanh niên đứng sau quầy
bar cũng nói, “Đã đến giờ của anh phải không.” Cậu đợi hết bản
nhạc đang chơi, thay đĩa, và mở cho tôi nghe bản Li le Wings của
Jimmy Hendrix. Tôi châm điếu thuốc cuối cùng, uống ly gin tonic
cuối cùng, bước chân ra cửa đúng vào lúc bản nhạc chấm dứt. Bước
chân ra con phố nhỏ vắng ngắt, sáng sủa, thoáng đãng mát mẻ. Tôi
nhắm mắt mấy giây, đợi một đôi cánh vô hình mềm mại, vỗ nhẹ qua
vai, rồi bước hẳn xuống lòng đường.
2. Ở bên phía đầu kia của quầy bar là một chỗ ngồi khá khuất.
Những người ngồi trên cái ghế gỗ ở phía đầu quầy bar đấy thường