“Chúng tôi nào được xơ múi gì ở số tiền này” người đàn bà than.
“Lại như gió vào nhà trống thôi” - “Rồi sẽ ổn, mẹ nó ạ”, người đàn
ông nói. “Sẽ ổn mà”.
Người đàn bà chẳng ừ chẳng hử. “Khi nổ máy, chuyển từ số một
lên số hai hơi rè”, người đàn ông nói, “nhưng không phải vì hỏng
hóc gì đâu. Dạo còn mới nó đã thế”. Bác kể về chiếc xe như kể về
một đứa con. “Chúng tôi có nó đã ba năm nay, và chưa hề gặp
chuyện gì rắc rối với nó. Chỉ vì… thoạt đầu tôi lâm bệnh, rồi có một
kẻ đã hại tôi… một thằng bạn..”
“Một tên vô lại”, bà vợ nói, nét mặt hằn học.
“Thôi nào, mẹ nó”, người chồng nói và nhìn vợ, “tôi sẽ lại khấm
khá lên, phải thế không, mẹ nó?”
Người vợ không đáp. Người chồng túa đẫm mồ hôi.
“Bác cho tôi xin địa chỉ của bác”. Koster nói, “có thể sẽ có lúc
chúng tôi cần một người lái xe”.
Người đàn ông hăm hở viết, đôi bàn tay nặng nề, chất phác. Tôi
nhìn Koster; cả hai chúng tôi đều hiểu rằng họa có phép lạ mới hòng
biến điều hứa hẹn trên thành sự thật. Mà phép lạ thì không còn nữa.
Có chăng chỉ tổ sa sút thêm.
Người đàn ông nói liên hồi như trong cơn sốt. Cuộc bán đấu giá
kết thúc. Trên sân còn trơ lại chúng tôi. Bác bày cho chúng tôi nên nổ
máy như thế nào vào mùa đông. Bác vuốt ve mãi chiếc xe, tuồng
không muốn rời. Rồi đứng lặng. “Ta về thôi chứ, ông Albert”, bà vợ
nói.
Chúng tôi chìa tay cho bác. Hai người đi. Chúng tôi chờ cho tới
khi họ khuất dạng. Rồi chúng tôi cho xe nổ máy.
Khi đi ngang, chúng tôi trông thấy một bà lão nhỏ bé. Bà cụ ôm
trong tay chiếc lồng vẹt và đang xua mấy đứa trẻ xúm vào xem.
Koster dừng xe. “Cụ định về đâu đây?” cậu ta hỏi.