tiếng này. Ít nhất ông phải có một quyết định thận trọng, và dù có thói quen
trông cậy vào chính mình, ông bắt đầu khát khao tìm một lời khuyên.
Không cần phải hỏi thẳng, nhưng hẳn ông có thể dò hỏi một cách kín đáo,
ông nghĩ vậy.
Chẳng bao lâu sau, ông ngồi một bên lò sưởi ở nhà mình, bên kia là ông
Guest, viên thư ký trưởng của ông, và chính giữa họ, ở một khoảng vừa tầm
tay cách xa ngọn lửa, là chai rượu vang rất xưa đã từ lâu nằm khuất ánh
mặt trời trong hầm nhà ông. Sương mù vẫn gối đầu lên chái nhà mà ngủ
trên thành phố chìm đắm, nơi các ngọn đèn le lói như những hạt ngọc đỏ.
Xuyên qua những cụm mây thấp ngột ngạt và bức bí này, cuộc sống của thị
trấn vẫn diễn ra cuồn cuộn trong các đường huyết mạch lớn ồn ào như tiếng
gió thổi mạnh. Nhưng căn phòng sáng tươi ánh lửa. Vị chua trong chai
vang đã phân giải từ lâu, màu vương giả đã dịu lại cùng với thời gian, như
màu sắc nồng thắm hơn qua cửa sổ kính màu, và ánh rực rỡ của những
chiều thu nóng bức trên vườn nho ở sườn đồi đã sẵn sàng tỏa ra để xua đi
sương mù của thành phố Luân Đôn. Ông luật sư mơ màng suy nghĩ. Ông
Guest là người mà ông thổ lộ bí mật nhiều nhất, và ông thường không chắc
rằng mình giữ được nhiều bí mật như mình dự tính. Guest thường đến nhà
ông bác sĩ mỗi khi có công việc, anh ta biết Poole, anh ta khó mà không
biết rằng ông Hyde hay lai vãng tới căn nhà đó, anh ta có thể rút ra kết
luận. Vậy thì chẳng phải anh ta cũng nên xem lá thư có thể đưa bí ẩn đó ra
ánh sáng hay sao? Và nhất là vì Guest, vốn là người rất giỏi xem và nhận
mặt chữ viết tay, sẽ sốt sắng coi việc đó là dĩ nhiên? Hơn nữa, viên thư ký
này là người để hỏi ý kiến, anh ta không thể đọc một tài liệu lạ lùng như thế
mà không thốt ra một lời nhận xét, và qua nhận xét ấy ông Utterson có thể
định hướng đi trong tương lai của mình.
Ông nói: “Vụ Huân tước Danvers này thật đáng buồn.”
Guest đáp lời: “Vâng, thưa ông, đúng vậy. Dư luận bị chấn động mạnh. Gã
đó dĩ nhiên là điên.”