Bạch Thái Bưởi gật gù khi nghĩ đến điều này. Để có số vốn lớn, ông
đã hùn tiền với một người Pháp cùng ý hướng. Họ chuyên khai thác gỗ
làm tà-vẹt bán cho Sở Hỏa xa Đông Dương.
Trong ba năm liền, ông lặn lội khắp núi rừng để tìm gỗ tốt. Hầu hết gỗ
được khai thác tại Thanh Hóa. Tại sao Bạch Thái Bưởi lại mạnh dạn lao
vào công việc khó nhọc này khi đồng vốn của ông chỉ là “muối bỏ biển”
nếu so với các đại gia khác? Bởi ông đã nhìn thấy một nguồn nhân công
dồi dào, có thể thuê với giá thỏa thuận, hợp lý.
Như ta biết, vào cuối năm 1897 khi người Pháp chính thức thành lập
Ban Kinh tế trực thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương để nghiên cứu các
vấn đề nông nghiệp, thương nghiệp và công cuộc thực dân hóa thì họ rất
cần nhân công. Đây là thời điểm thực dân Pháp sử dụng tù nhân và tuyển
phu, nhân công bản xứ. Chính sách này đã đẩy hàng chục vạn nông dân
chân lấm tay bùn ra khỏi đồng ruộng để đến với các công trường mới.
Những nông dân trước đây chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời
trên cánh đồng một nắng hai sương nay đã trở thành cu-li – tức những
người làm phu, làm mướn, lao động chân tay với nhiều việc làm khó nhọc.
Để có được số lượng cu- li đông đảo, thực dân Pháp đã phải thông qua
bọn “cai tuyển”. Đây là hạng “buôn người” mới ngoi lên, mới hình thành
trong thời buổi giao thời nhố nhăng này. Chúng tàn nhẫn, cay độc “mua”
sức lao động của nông dân lúc thất bát mất mùa, đói khổ, nghèo rớt mồng
tơi bằng giá rẻ mạt. Để rồi “bán” lại cho các công trường, đồn điền với
giá cao hơn gấp nhiều lần. Thông thường, mỗi cu-li sẽ được tạm ứng 1
đồng tại điểm xuất phát Hà Nội, nhưng lại bị trừ thẳng vào tiền lương.
Không những thế, số tiền này còn ít hơn thỏa thuận ban đầu rất nhiều, vì
bọn cai thầu cắt xén, tước đoạt bằng nhiều thủ đoạn thâm độc!
Với Bạch Thái Bưởi, ông không áp dụng cách làm tàn nhẫn này. Ông
tạm ứng tiền cho cu-li đã tuyển mộ để họ yên tâm dốc sức làm việc cho
mình. Nói cách khác, ông đã thỏa mãn được nhu cầu chính đáng của công
nhân đang bán sức lao động. Khi ông vay vốn để trả lương cho lực lượng