Hai hôm sau, tôi phải nhận quyền quản đốc trại Kuriajê, nên ngày hôm ấy
cần phải làm, phải nói cái gì với hội đồng đội trưởng, để cho trong khi vắng
tôi các trại viên vẫn có thể tổ chức được cái việc vô cùng khó khăn: nhổ trại
và vận chuyển tất cả mọi người với toàn bộ hành trang, khí giới sang bên
đó.
Ở trại, những lo sợ và hi vọng, những não cân căng thẳng, những con mắt
sáng ngời, những ngựa và xe tải, cả một biển xao động những chi tiết vụn
vặt, những lời dặn dò quên mất và những dây thừng thất lạc, hết thảy những
cái đó chằng chịt quấn lấy nhau thành một búi phức tạp hết sức, khiến tôi
không tin rằng các trại viên có thể xoay xở gỡ nổi.
Mới có một đêm trôi qua từ sau khi nhận bản hợp đồng giao trại Kuriajê
cho chúng tôi, vậy mà trại đã chuẩn bị được sẵn sàng để ra đi, cả về mặt
tinh thần, nhiệt tình lẫn nhịp độ. Bọn trẻ không sợ Kuriajê, có lẽ là vì chúng
chưa nhìn thấy nó trong tất cả sự lộng lẫy kỳ quái của nó. Kuriajê vẫn là
một ảo ảnh không thể nào rứt ra khỏi tâm trí tôi, khác nào một trong những
con ma cà rồng khủng khiếp và quái đản nọ, có thể túm chặt lấy cổ họng
tôi, mặc dầu cái chết của nó đã được chính thức công nhận từ lâu rồi.
Hội đồng đội trưởng đã quyết nghị rằng: sẽ chỉ có chín trại viên và một giáo
viên cùng đi với tôi sang trại Kuriajê thôi. Tôi yêu cầu cho thêm người. Tôi
vạch ra rằng với những lực lượng ít ỏi như vậy thì chúng tôi sẽ chẳng làm
được trò trống gì, trừ phi làm mất uy tín của trại Gorki, rằng tất cả các giáo
viên của Kuriajê đã bị thải hồi và, ở bên ấy, có rất nhiều người căm ghét
chúng tôi thâm độc.
Kutlaty trả lời tôi với một nụ cười châm biếm đáng yêu:
- Hỏi cho cùng, thì dù bác đem đi mười người hay hai mươi người, cũng thế
thôi: bác sẽ chẳng làm trò trống gì hết. Nhưng khi nào tất cả mọi người đến
nơi, thì bấy giờ lại là chuyện khác, ta sẽ nắm lấy chúng cả một mẻ. Bác hãy