trong cuộc biểu diễn múa khiên mừng thắng trận ngay trên điện vua Chàm
vừa chiếm được. Vì lẽ đó con cháu các thủ lãnh vùng phải chịu phục tùng,
không thể nào diễn trò đảo chính như cũ nữa.
Vị trí Thăng Long giữa một vùng trung châu lớn, đất màu mỡ đem
lại cơ hội cho họ Lí mở rộng quyền hành hơn. Lãnh đất thì lãnh trách
nhiệm cho nên cũng như Cao Biền xưa, Lí Thái Tổ phải chận dòng Thái
tràn xuống trung châu (1012-1014), hay đàn áp các thủ lĩnh bên rìa đồng
bằng từ lúc phủ Đô hộ tan rã, đã trở nên độc lập hơn đối với chính quyền
Tống xa nên càng thấy khó chịu nhiều hơn với chính quyền Thăng Long
gần. Nổi bật nhất là vấn đề tập đoàn Nùng của Nùng Tồn Phúc, Trí Cao
(1039, 1041, 1048, 1052) dẫn đến các tranh chấp biên giới với Tống gây
cuộc chiến 1075-77.
Có vẻ như tiền của mang từ Hoa Lư đi (ví dụ vàng bạc của ông Lê
Hoàn bày ra phơi “chật cả sân” để khoe với sứ Tống) cùng những lợi tức
thu nhận trực tiếp từ quanh Thăng Long (chiến lợi phẩm, mùa màng, cống
phẩm – trong đó có vàng) đã đủ cho Lí Thái Tổ xây cung điện, làm việc
mua chuộc các thế lực nhỏ, đánh dẹp những chống đối lớn. Nhưng việc giữ
gìn quyền lực vẫn thường phải dẫn đến hành động bành trướng quyền lực.
Thái Tông sắp xếp các đơn vị quân binh, đóng thuyền lớn nhỏ để mở rộng
khả năng tác chiến. Đến đời ông mới thấy có một chừng mực tổ chức diẹn
địa
(làm đường, có trạm kiểm soát như một hình thức rào biên giới),
phân chia thành phần dân chúng để lấy người chiến đấu, tổ chức hình luật,
siết chặt kỉ luật với quân binh… Kết quả của những xây dựng đó được nối
tiếp ngay đời sau. Việc bành trướng quyền lực lại đòi hỏi chi tiêu nhiều hơn
với những lợi tức không chỉ là từ nông nghiệp. Thế kỉ XI đã thấy bóng
dáng của đế quốc Angkor trong những ghi chép “Chân Lạp sang cống”
(1014, 1020, 1026). Đó là chứng cớ về dòng giao thương theo lưu vực
Mekong trên đất Lào chuyển qua Nghệ An thông với biển Đông khiến nơi
này trở nên quan trọng đến phải có một thân vương (Lí Nhật Quang) trấn
giữ. Lí lại thấy có cơ hội thu lợi tức từ phía nam, gợi nhớ từ trận chiến của
triều trước.