gián đoạn mà chỉ là tiếp tục, trong nếp sinh hoạt của những người sống trên
mảnh đất đã thay đổi chủ quyền, và đó là cơ sở lâu dài cho sự tồn tại của
Lí.
Lí về kinh đô Cá Sấu Thăng Long, tầm mắt vươn xa trên một vùng
đồng bằng lớn rộng, có đất đai để khai thác giàu mạnh theo một cung cách
khác với lối cướp đoạt thông thường, mở ra trên một cơ sở quản lí của thời
thuộc địa nay đã phân rã gần một thế kỉ nhưng còn giữ được khuynh hướng
tập trung rồi sẽ giúp họ, cũng như những dòng họ tiếp theo, nắm tư thế gom
góp quyền hành càng lúc càng xứng với danh nghĩa “triều đại” vốn thật mờ
nhạt lúc khởi đầu. Không có việc dời đô, không có Lí, Trần hay ai đó về
sau chắc hẳn không đủ khả năng đương cự với sức mạnh tràn lấn của
Nguyên Mông. Chính sự tồn tại lâu dài của Lí đã khiến cho chủ nhân cũ
phải dứt khoát từ bỏ ý định chiếm lại thuộc địa xưa, công nhận một nước
mới ở sát phía nam của mình. Tên nước An Nam tuy còn vướng vít quá
khứ nhưng ở đó đã có một “quốc vương” mang tính tự chủ chứ không phải
là một “quận vương” của triều đình phương Bắc phái đến cai trị nữa. Chính
Lí đã chính thức nêu danh hiệu Đại Việt lâu dài cho đất nước mình cai quản
(1054) qua những dò dẫm của các triều trước, hình như là nước Đô Hộ của
Ngô vướng qua thời Đinh, lẫn lộn với Đại Cồ Việt như một nối kết với
nước Nam Việt của Triệu Đà xưa đã làm gàn trở mà thành hình tên Việt
Nam ngày nay.
Nhưng không phải vì công cán kết tập ban đầu đó mà ta phải nhìn
Lí như một triều đại rực rỡ theo cách nhìn tán tụng của người thời nay. Sử
xa đời tuy mờ mịt, sử quan hay bị chê trách nịnh bợ chủ nhưng nhìn vào
các ghi chép để lại, ta thấy họ thật thà một cách đáng ngạc nhiên. Đó cũng
vì may mắn chúng ta có được quyển sử tuy cũng do nho sĩ viết nhưng thuộc
vào thời đại ít khuôn thức gay gắt hơn lớp người sau họ. Quyển Đại Việt sử
lược
lưu lạc ở Trung Quốc, thoát được nạn tiêu huỷ trên đất gốc, trở về
Việt Nam trong thế kỉ XX, mang lại những thông tin về Lí sát đời-thường
hơn quyển sử Đại Việt sử kí toàn thư
của triều đình Tống nho Hậu Lê. Và