đến bây giờ, sớm nhất là xuất hiện trong đời Mạc (ví dụ đình Lỗ Hạnh
1576, bia đình Nghênh Phúc 1591), sao không thấy đó là chỉ dấu của một
nền thương mại trên đà phát triển đã tác động đến sinh hoạt của làng xã
đương thời, đem tiền bạc vào nâng cấp cuộc sống vật chất và tinh thần ở
đó?
Sự phát triển thương mại trên mặt biển dưới thời Mạc cũng thấy dấu
vết ở từng lớp trên, gián tiếp qua việc vua quan, nội cung tạo tác nhiều
chùa, tượng thờ Quan Âm xuất hiện đồng lúc với việc yểm trợ xây cất,
trùng tu các “chùa” Bà Banh ẩn giấu dưới các tên hiền hoà hơn. Điều đó
chứng tỏ đương thời người ta cần đến vị Bồ tát yểm trợ người đi biển, trong
đó có lẫn lộn tín ngưỡng Phật Giáo, Đạo Giáo của Trung Hoa cùng với các
tin tưởng chìm lắng hơn của phía Nam về hình ảnh con ngựa Balaha, Việt
hoá dưới tên thần Bạch Mã Thái Giám lấn lướt hình ảnh phong thuỷ của
thần Long Đỗ ở đất Thăng Long rơi rớt từ thời Bắc thuộc… Rồi cũng với
hiện tượng thâm nhập từ phía biển lại thấy manh nha một loại linh thần nữ
sẽ lan tràn trong các thế kỉ sau nhưng khởi đầu ở thế kỉ chiến tranh loạn lạc,
chết chóc này, là một thần tai dịch hung dữ – thần Liễu Hạnh, vốn là một cô
gái có thật vì được ghi là sinh ra với niên điểm chắc chắn: 1557, với chứng
cớ từ gia phả một gia đình giàu có đem gửi gắm vào danh sách hậu thần, ở
đó, cô được thần hoá qua thời gian theo một tiến trình bây giờ không kiểm
chứng được bởi chính sự thần hoá kia. Các thần biển nữ, có lúc mang dạng
Phật – Quan Âm, rồi sẽ phối hợp với dòng tin tưởng shaman rừng núi, lập
nên một hệ thống thần điện Việt được thờ cúng với nghi lễ hoành tráng
trong các điện, phủ càng lúc càng phát triển phồn tạp. Thiên Chúa Giáo, tôn
giáo mới cũng bắt đầu mon men vào nước Việt. Theo Thánh dụ 1493 của
Giáo hoàng Alexandre VI phân chia phần thế giới cho Bồ, các giáo sĩ sang
châu Á lúc bấy giờ đều phải đi trên tàu Bồ, bắt đầu xuống bến ở Lisbonne,
cho nên họ toả vào Đại Việt hay trốn chạy trong thời gian bị truy bức, xua
đuổi đều qua tay của thương nhân Bồ. Dấu vết đầu tiên là trường hợp một
giáo sĩ mà sử Việt ghi là I-nê-xu, có thể từ nguyên dạng Ignatio, đến đất
Nam Định năm 1533. Giáo dân Việt đầu tiên được ghi nhận có đầy đủ tên