các tập họp phù trợ, nhất là Trịnh Nguyễn, và vì bản thân lập lờ của vua
không xác định được tính chính thống cho rõ ràng, nhưng đối với dòng vua
mang dáng kế tục như Anh Tông (làm vua 1557-1572) có liên hệ đến Lê
Lợi thì thấy nổi lên dấu vết hoạt động tích cực hơn. Trong tranh chấp Trịnh
Cối Trịnh Tùng dẫn đến loạt tấn công của Mạc, sử ghi ông vua đã “tự mình
làm đô tướng, thống đốc đại quân ra đường giữa…” để chống quân địch.
Nhưng với hành động như thế thì vua cũng chỉ là một viên tướng cầm một
cánh quân. Cho nên khi phải giành quyền với Trịnh Tùng thì Anh Tông
phải nhờ cậy một viên tướng khác, lại không có liên hệ tông tộc ở địa
phương: Lê Cập Đệ – đó lại là điềm thua thấy rõ trước “tổng tư lệnh” họ
Trịnh trong vùng. Anh Tông gả con cho vua Lào là âm mưu kết hợp với thế
lực bên ngoài giữa hai nước nhưng hẳn cũng là nhằm làm tăng thêm uy thế
của phe Lê.
Trong lúc cái thế chính nghĩa tôn quân còn nằm ở lí thuyết thì các
quan văn lại bị lép vế trước các võ quan. Văn chức được tuyển chọn trong
các kì thi bất thường, các Chế khoa: 1554, 1565, 1677 chưa đủ là một tập
họp áp lực như những người đồng đạo ở phe Mạc. Năm 1572, Nguyễn Bính
lập ra một loạt thần tích lấn cả trên vùng Đông Việt chưa chiếm được, nối
kết ít nhiều các thần linh rải rác với ông Hùng Vương mới được tạo dựng
thành Quốc tổ gần một trăm năm trước, như một cố sức giành chính nghĩa
cho phe mình. Tuy nhiên, hệ thống Hùng Vương lúc này còn mỏng quá,
Nguyễn Bính chỉ nặn ra được tên hai ông vua cho nên ở xứ Nghệ, trên cửa
Cờn, ông Quốc tổ vẫn còn lạc loài với thứ hạng XIII lẩn khuất theo thần cá
voi, thần Po Ryiak. Hệ thống thần tích mới đó, về phía nội bộ, có vẻ như
một cố gắng của tập họp văn chức muốn chứng tỏ vai trò của mình trong
việc quy tụ quyền lực tinh thần về Lê nhưng kết quả hẳn không có giá trị
quyết định trong việc giành quyền trên đất Thanh Hoá cho nên tên “Phúc
Lớn” / Hồng Phúc của niên hiệu mới vừa đổi đã không ngăn được Trịnh
Tùng giết Anh Tông.