Thế lưỡng đầu trong tình hình củng cố quyền
bính Trung hưng
Về đến Đông Kinh trong tình hình chiến thắng chông chênh, phe
Tây Việt vẫn phải giữ nguyên thế tôn phò trên đất cũ mới chiếm được. Tuy
sau đó nhiều lần, mỗi khi có biến loạn là họ Trịnh lại rút về Thanh Hoá
nhưng trong lễ cáo tế trời đất nhắm vào Đông Kinh, Trịnh Tùng vẫn phải
kêu cầu đến “Thái Tổ Cao Hoàng Đế” chứng giám cho việc “khôi phục cõi
đất của triều Lê.” Việc rước vua Lê từ Thanh Hoá ra nhận công tích khôi
phục với đủ lễ nhạc dành cho một vị thiên tử trước thần dân, có thêm sự
hiện diện của một phe liên minh, của Vũ Đức Cung phía tây bắc, là chứng
thực cho một nền nếp chính thống mà cả họ Trịnh cũng không thể tranh cãi.
Tuy nhiên thực tế quyền bính nằm trong tay ai đã rõ. Vua Lê còn giữ chút
quyền tượng trưng nhỏ nhoi như “mật cầu đảo trong cung” khi hạn hán (hai
lần 1597, 1598) nhưng qua năm sau nữa thì vua phải có chúa đi theo mới
tác động đến thần linh! Chỉ vì đến lúc này, Trịnh Tùng đã ép vua phong
vương, lập phủ Chúa, đặt chức Tham tụng đứng đầu quan lại để làm việc
dưới tay, và ra oai giết thêm một ông vua thứ hai nữa (1619) cho thấy
quyền uy của mình. Vua Lê chỉ hưởng lộc 1000 xã với 5000 lính túc trực
hộ vệ trong nội điện, 7 thớt voi và 20 thuyền rồng. Sử quan Nguyễn bênh
vực chính thống cho Lê, phải than thở giùm: “Vua chỉ chỉnh chện mặc áo
long bào, cầm hốt ngọc nhận lễ triều yết mà thôi.” Thật ra thì danh vị “vua”
cũng còn một chút uy thế hời hợt để cho một vài ông quan đương thời lúc
đầu còn làm sớ dâng vua (1618) tâu bày tình trạng đất nước, không biết
rằng vua xem tờ tâu rồi “lưu lại trong cung”! Các sắc phong chúa do vua
ban, đem tuyên cáo với quốc dân cũng có chút tác dụng níu giữ ngôi vị cho
vua. Tuy nhiên ngay từ tình trạng còn danh vị hão lúc đầu đó cũng khiến
xảy ra sự tranh quyền ở cấp dưới để quan triều thấy phải tỏ rõ quyền lực
chính là nơi đâu nên tâu với Trịnh Tùng về “những kẻ gian ra vào nội điện
xúi giục làm càn… cho chức danh trái lẽ… thuế khóa cho người ra dân thu