chịu ảnh hưởng thời đại sắt nơi đây vốn có nhiều quặng sắt.Lối chôn cất Sa
Huỳnh lại giống với ở Ban Kan Luang trên thung lũng Mun của Thái.
Chúng ta cũng lưu ý vùng Trấn Ninh (thường gọi là Cánh Đồng
Chum) có các chum đá chứa tro xương thiêu. Có hang đá vôi thiêu xác, tro
người thường thì bỏ vào chum đất còn tro lãnh chúa thì trong chum đá.
Nghĩa là vấn đề mộ chum lại bắt qua một nền văn hóa cự thạch: menhir ở
Hua Pan tập trung từng vùng hay đặt cạnh đường đi, phía Việt Nam có
dolmen Guốc vua Thục ở Cao Bằng, “bia đá” menhir ở Lào Cai, Lạng Sơn,
lần xuống đồng bằng ở Bắc Giang, Bắc Ninh (núi Lạn Kha)… đến các ông
Đống khổng lồ mơ hồ “bóp chết rắn, cắn nát núi, húi sạch rừng, bưng
ngang lũ,” trong thời đại lịch sử đã biến thành ông Phù Đổng Thiên tướng
giúp vua Hùng, ông Cao Lỗ giúp An Dương Vương, ông Lí Ông Trọng
giúp vua Tần chống Hung Nô, ông thần Chàng Vàng / Đô Lỗ ở Thanh Hà,
Hải Dương giúp Lê Đại Hành chống Tống. Trên đường vào nam có đá ở
Quảng Ngãi, chuyển hoá thành người bắt cá biển bằng tay không ở cái Rổ
Đó Khổng Lồ (nay là bán đảo Phương Mai, Bình Định), nối kết các ông bà
Khổng Lồ của hệ thống Khmer, cuối đường có mộ đá Xuân Lộc nổi danh,
và tràn ra ngoài hải đảo mang dấu khắc hoạ người đi theo trống Heger I.
Lại cũng thấy dấu vết mộ chum ở lớp đất tiền Óc Eo, trên vùng đất đỏ,
giồng ngập mặn lưu vực Đồng Nai, ngoài đảo Côn Sơn, trên Tây Nguyên
theo các khai quật gần đây. Chưa kể là còn có thể liên hệ mộ chum với mộ
nồi vò úp nhau trên vùng Bắc Việt Nam, xa hơn đến tận Trung Quốc…
Chính từ trong điểm chung vẫn có sự khác biệt do ảnh hưởng từng khu vực.
Ta đã thấy chum đá ở Thượng Lào, nhưng ở vùng Chàm cũ thì là chum đất
chứa tro cải táng giống như ở Đồng Nai (Hàng Gòn, Phú Hoà…), ở Giồng
Phệt (Bà Rịa Vũng Tàu) thì chôn người chết trực tiếp trong chum đồng thời
với các mộ đất, còn ở Phú Chánh (Bình Dương) là chum gỗ! Nhưng lại
cũng như tập nhóm Đông Sơn, Sa Huỳnh cũng kéo dài đến thời kì có sử
như chứng cớ hiện diện của các vật dụng (gương Tây Hán ở Bình Yên –
Quảng Nam, gương Đông Hán ở Phú Chánh.)